Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018

Thành tâm hồi hướng, cơ hội cuối cùng của giới lãnh đạo Việt Nam - bài viết 2014.


Thành tâm hồi hướng, cơ hội cuối cùng của giới lãnh đạo Việt Nam

(Blog bs HH) Một bài viết tâm huyết của một người bạn, trí thức nhưng xin được giấu tên, gửi cho tôi đăng dùm trên blog, như một lời nhắn gửi của 1 người con yêu nước. 2014

Giặc trong cửa ngõ
Giặc đã vào nhà. Hãy cùng nhau nói chuyện lần cuối. Chúng ta sẽ không còn thời gian, cơ hội hay cảm xúc, lòng tin để nói với nhau thêm lần nữa.
Nước Việt Nam tôi, khi bên ngoài có giặc thì trong cõi lại tạm yên để hợp lực chống kẻ thù chung, khi bên trong nồi da xáo thịt thì thường cũng may mắn vắng bóng kẻ thù bên ngoài… Mấy nghìn năm lịch sử, cũng chỉ đôi lần thiếu mất sự đồng tâm, khi kẻ xâm lăng đã xông thẳng vào nhà.
Năm 1407, một Nhà Hồ không thua kém Nhà Trần tại thời điểm ngay trước đó bất cứ điều gì, nếu không muốn nói là một sự thay thế mang tính tiến bộ, đã vì không có được lòng dân mà mất nước, mất nhà, nhưng vẫn nêu được tấm gương kiên tâm chống giặc. “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”, Hồ Nguyên Trừng đã nói thế. Cuối cùng, Nhà Hồ đã đánh. Việt Nam đã đánh. ĐÁNH, dù biết trước cuộc thua.
Năm 1862, Nhà Nguyễn khiếp nhược và bất lực trước đại bác Phương Tây, kìm nén sức dân để đất nước rơi vào một cuộc đô hộ trăm năm, cội nguồn nhiều đổ vỡ ly tán dân tộc còn đến tận hôm nay.
Năm 2014 này, năm của thế hệ chúng tôi đang sống, nguy nghịch thay cho đất nước Việt Nam, một lần nữa lại bị rơi vào cảnh ấy, và có phần còn tệ hại hơn thế nữa. Trong bối cảnh đó, lòng dân đang ở đâu? Và giới cầm quyền đang ở đâu?
Ngay lúc này đây, đứng trước quốc dân và đứng trước lịch sử dân tộc, giới cầm quyền Việt Nam đang nghĩ gì và làm gì?
Đang hòa hoãn với giặc. Đang đưa ra những câu nói bất hủ sẽ còn gieo khối nhục ngàn năm.
Tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây, giặc nước vào nhà, thì đuổi sứ, cắt bang giao, đóng cửa biên giới, huy động quân bị, chứ có thấy ai hùng hồn tuyên bố “kiên quyết không sử dụng… vũ lực” hay chưa vậy tổ tiên đất nước này!
Sợ giặc à? Tự thâm tâm, tôi còn chưa nghĩ thế.
Sợ mất chế độ.
Sợ đánh giặc thì một cuộc sụp đổ kinh tế dẫn đến một cuộc sụp đổ chính trị. Kinh tế nước nhà đang lệ thuộc vào giao thương với nước giặc. Giới cầm quyền đã không dám vào cuộc “tiêu thổ kháng chiến” như cha ông những năm 1258, 1285; hay như chính tiền nhân của họ năm 1946.
Cũng như Nhà Hồ, giới lãnh đạo hiện nay hiểu rõ lòng dân đang không theo. Nhưng thuận lợi cho họ hơn Nhà Hồ, giặc hiện nay không thể đánh rát như cha chú của chúng trước đây, mà phải dùng chiến lược tằm ăn dâu. Bản thân giặc cũng đang có những khó khăn nội tại chồng chất, thậm chí là nguy cơ tan rã quốc gia. Và như thế, có thời gian cho giới cầm quyền Việt Nam lấy lại lòng tin từ người dân, bằng những hành động thực tiễn.
Trước khi đề cập đến những đòi hỏi hành động đó, hẵng cùng điểm qua một lịch sử gần.
Nhìn qua quá khứ
Cùng nói về cái chế độ mà họ đang sợ đánh mất: chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Làm gì có cái chế độ đó trên đất nước này, ngày hôm nay, hay bất cứ ngày tháng nào mà dân tộc tôi đã sống qua.
Con đường Cách mạng Vô sản từ góc nhìn của những năm 1930-1945 là một sự LỰA CHỌN, của thời điểm 1954-1955 là một sự ĐÁNH ĐỔI, của năm 1975 là một sự HIỂN NHIÊN, của những năm 1989-1991 là một sự NGỘ NHẬN và của thời kỳ năm 2010 đến nay là một sự LỪA DỐI.
Tại sao tôi gọi tên như thế?
Phải thừa nhận sự thật lịch sử là thế hệ những người Cộng sản đầu tiên đem công cụ này về Việt Nam không ngoài mục đích giải phóng dân tộc. Và công cụ đó tại thời điểm đó đã tỏ ra mạnh mẽ và hiệu quả hơn hẳn [các giải pháp khác]. Do đó, hãy gọi đó là một sự Lựa chọn. Đừng đánh giá họ đứng từ lăng kính của Thế kỷ XXI này.
Đáng thương cho dân tộc Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã rơi vào bàn cờ thế giới. Đó chính là thời khắc toàn cầu hóa đấy, chứ nào phải đợi tới cuối thế kỷ XX đâu. Và số phận dân tộc này đã bị các siêu cường quốc tế tung đi hứng lại. Trong cuộc mà cả toàn cầu đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam (của cả hai bên) đã thực hiện những Đánh đổi đầu tiên, đánh đổi việc bảo vệ lý tưởng của phe mình, bảo vệ quyền lực thống trị của phe mình lấy sự chia cắt đất nước, lấy cuộc chiến 21 năm tiếp theo mà họ cũng không tưởng tượng ra nổi vào cái năm 1954 đó. Một cơn lốc lịch sử khốc liệt tang thương. Cuộc đánh đổi đã đẩy hẳn chính thể Việt nam Dân chủ Cộng hòa vào phe Xã hội chủ nghĩa khi ấy.
Năm 1975. Người chiến thắng có bao giờ phải thay đổi? Cả nhân loại xưa nay vẫn thế. Do đó, có thể xem định hướng đất nước trong việc đổi tên gọi đầy cao vọng và không chút do dự vào năm 1976 như là một sự Hiển nhiên. Không thể đòi hỏi gì nhiều hơn logic thực tế đó. Vinh quang chiến thắng của người lính Cộng sản Việt Nam huy hoàng hơn nhiều nhiều nước XHCN Đông Âu – những nhà nước được ngoại bang dựng lên, hơn cả nước lớn Trung Hoa còn chưa thống nhất.
Hai cuộc chiến Tây Nam và biên giới phía Bắc sẽ mãi mãi còn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, cho dù chính thể lãnh đạo hai cuộc chiến đó có còn tồn tại hay bị lịch sử chối bỏ. Giới sử học quốc tế đã có nhiều tiếng nói nêu lại công lao chống diệt chủng của Việt Nam, xóa dần những đánh giá bất công mang màu sắc chính trị hơn là lịch sử, của mươi hai mươi năm trước… Đừng trách Việt Nam đã đóng quân quá lâu, những gì Việt nam đã làm không khác Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, để bảo vệ an ninh chính đất nước mình… Sự hy sinh của người lính Việt Nam 10 năm trên biên giới Tây Nam cần được Tổ quốc thực sự ghi công. Cũng 10 năm ấy là sự hy sinh thầm lặng của bao chiến sĩ trên biên giới phía Bắc và miền hải đảo.
Những năm 1989-1991. Giới lãnh đạo Việt Nam bàng hoàng và lúng túng. Họ còn quá bận với hai cuộc chiến nêu trên. Họ thực ra vẫn chỉ là những người lính chiến thắng mà thôi. Họ không hiểu những gì đang xảy ra (tại Liên Xô và Đông Âu), cũng như trước đó họ chưa từng hiểu về Liên Xô và Đông Âu. Ta nên biết, nếu quy chiếu máy móc, tầm nhìn, tâm thế của họ vào năm 1990 (15 năm sau chiến tranh), phải tương tự các nước Đông Âu – Liên Xô vào năm 1960 (15 năm sau chiến tranh), nhưng thực tế còn thậm tệ hơn thế do đặc thù địa lý, văn hóa và xuất thân. Trung Hoa kế cận cũng đã có 41 năm hòa bình độc lập (1949-1990). Các cuộc chiến biên giới tứ phương của Trung Hoa thật ra chỉ mới là màn thủ đoạn trộm vặt của họ. Làm sao ta có thể đòi hỏi các nhà lãnh đạo Việt Nam khi ấy đủ bản lĩnh, hiểu biết và sáng suốt? Thiếu hết những thứ đó, họ đã rơi vào cạm bẫy Ngộ nhận do gã to xác nham hiểm giương ra.
Thật ra trước đó, trong kỳ Đại hội năm 1986, Việt Nam đã manh nha một cơ hội cực kỳ quý báu để có thể tự thoát thai. Đáng tiếc, cơ hội đó đã bị đánh rơi mất, khi những biến động Đông Âu xảy ra hơi sớm (nhìn ở góc độ tác động đến bối cảnh Việt Nam) và quá quyết liệt, khiến giới lãnh đạo Việt Nam giật mình nhảy ngay vào bẫy.Cái đáng sợ của sự lừa dối là lừa dối huyễn hoặc cả chính bản thân mình.
Việt Nam 2010.
Xã hội Việt nam đã bắt đầu giống với Đông Âu 1980. Trung Hoa 1985. Trong khi chính giới Trung Hoa may mắn có một Đặng Tiểu Bình (tội đồ của nhân dân Việt Nam) và một số nhân vật chủ chốt khác đã nếm đòn của chính nền Chuyên chính Vô sản, và khi nắm lại quyền đã lẳng lặng vo tròn bóp méo nó; thì Việt Nam không có một nhân vật tương tự. Nhưng trên thực tế lãnh đạo Việt Nam cũng đã đủ độ lùi thời gian để đọc hiểu cỗ xe lịch sử hiện đại. Họ đã quá hiểu Chủ nghĩa Xã hội nằm ở chốn nào. Thế thì, đặt tên cho ngọn cờ Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa trong tay họ lúc này là sự Lừa dối, có gì quá đáng?
Cái họ đang sợ đánh mất có phải – hay có còn – là chế độ Xã hội chủ nghĩa?
Có thể trong tâm tư thế hệ lãnh đạo 1986-1990 thì còn là thế thật – cái thế hệ lãnh đạo Ngộ nhận; nhưng trong tâm địa thế hệ lãnh đạo hiện nay điều họ sợ đánh mất chỉ đơn thuần là cái quyền lực thống trị cá nhân và tập đoàn mà thôi! Mượn Đảng (như cái công cụ) để trị dân.
Chính quyền đang tự đưa mình vào thế đối lập với nhân dân, và đang tự tay mình hàng ngày hàng ngày châm thêm dầu vào lửa.
Hy vọng bảo vệ chế độ hiện nay, đặt hết vào hai bộ máy Công an và Quân đội.
Xin đặt một câu hỏi: Bảo vệ vì cái gì, Lý tưởng hay Lợi ích?
Lý tưởng ư? Ôi thôi bản thân giới lãnh đạo cũng đang hành xử như không hề mang lý tưởng đó, và họ cũng đủ tỉnh táo tự biết mình không hề còn lý tưởng đó, thì chẳng lẽ không đủ tỉnh táo để vứt bỏ đi niềm tự huyễn hoặc dựa vào đó để điều động nòng súng? (“Súng đẻ ra chính quyền”, câu nói này của Mao có thể còn đúng một thời gian nữa, và mong sao “chân lý” đó chưa kịp hủy diệt thế giới loài người trước khi nó bị đào thải.)
Còn nếu dựa vào Lợi ích? Thế thì lợi ích sát sườn mới là cơ bản, và khi lợi ích sát sườn được tọa độ hóa vào quảng đại quần chúng, thì họng súng đó quay chỉ vào đâu, lịch sử thế giới cũng đã nhiều lần chứng minh.
Thưa các nhà lãnh đạo, không phải súng, không phải công an hay quân đội, ngày hôm nay chỉ một thứ có thể bảo vệ được cho các anh, đó chính là Sự chấp nhận của Nhân dân.
Hãy thành tâm hồi hướng
“Hồi hướng” sử dụng trong khung cảnh bài viết nhỏ này, có thể không trùng khớp với định nghĩa nguyên thủy trong Giáo pháp; nhưng tôi vẫn muốn sử dụng từ này ở đây, vì đi chung với “thành tâm”, cụm từ vừa mang ý nghĩa biến đổi nhận thức đi liền thay đổi hành động, và với nghĩa đen của từng chữ tách riêng “hồi” và “hướng”, tôi không tìm được thay thế nào hay hơn để diễn tả mong muốn cá nhân đối với giới cầm quyền hiện nay; mong muốn một sự “tự giác hướng thiện”.
Trí thông minh và Lòng tham
Đối với đa số trong những người lãnh đạo hiện nay, tôi không tin họ thiếu trí tuệ hay tri thức. Do có điều kiện tốt hơn ở góc độ này góc độ khác, họ có được lợi thế trau dồi hiểu biết hơn đại bộ phận những người công dân khác. Điều này lại càng đúng hơn với các thế hệ f2, f3 của họ. Nhìn nhận một cách đơn giản nhất, chắc chắn họ phải có những tâm cơ hơn hẳn người khác để trèo lên cao, cho dù cách trèo thế nào chăng nữa, thì cũng phải vận dụng tâm cơ một cách linh hoạt. Họ có một bản chất ưu tú nhất định.
Như vậy, lên án họ ngu dốt là không đúng với thực tế. Họ đủ thông minh nếu không hơn thì cũng là bằng mức bình quân của tất cả, tôi tin điều đó.
Họ có sự thông minh, có trí tuệ, nhưng họ lạm dụng trí thông minh vào những động cơ đi ngược lại với quyền lợi nhân dân mà họ đã giành được quyền đại diện, họ tự bịt mắt trí tuệ của mình. Họ làm cho hình ảnh của họ trở thành ngu ngốc và ngớ ngẩn, nhưng họ không đoái hoài điều đó, khi họ tin rằng lợi ích của họ vẫn đang được bảo toàn chu đáo.
Điều gì đang điều khiển con người họ thay thế cho bản năng trí tuệ?
Chẳng có gì khác hơn Lòng tham.
Lòng tham có cơ hội phát triển và thăng hoa, đã giết chết trí tuệ, giết chết nhiều tình cảm cá nhân khác trong họ: lòng tự trọng, cảm giác biết xấu hổ, và nhiều thứ tình cảm thiêng liêng khác: lòng yêu thương đối với quê hương đất nước, đối với đồng bào, lòng biết ơn với tiền nhân, lòng kính Trời tin Phật (tôi tin 99% trong số họ tự thâm tâm đã trở thành hữu thần từ lâu), sự chung thủy đối với niềm tin của đồng đội họ đã ngã xuống cho đất nước này, cho chính thể họ đang lèo lái, cho họ có vị trí lãnh đạo ngày hôm nay. Họ xổ toẹt vào những gì tốt đẹp còn sót lại, và làm rỉ máu vết thương chia rẽ trong lòng dân tộc.
Chúng ta chẳng cần chỉ dạy cho họ những điều cụ thể như: phải bỏ Điều 4 Hiến pháp, phải từ bỏ học thuyết Mac-xit, phải đổi Quốc ca, thay Quốc hiệu…
Chúng ta chỉ mong một điều, họ đừng để Lòng tham che mắt bịt tai, và vận dụng chính trí tuệ của họ để tỉnh trí nhìn rõ một điều: nếu bản thân họ không “thành tâm hồi hướng”, tự giác thay đổi, chìa bàn tay ra với nhân dân, với dân tộc, cùng nhân dân gánh vác chia sẻ họa phúc, thì dòng thác lịch sử cũng sẽ cuốn phăng họ theo cách đẫm máu nhất cho nhân dân Việt, và khi điều đó xảy ra, đau thương thay cho những người dân vô tội lại phải nếm cảnh tang tóc lầm than, đau thương thay cho đất nước này mãi ngụp lặn trong hận thù và đố kỵ.
Blog bs HH

Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2018

Vĩ thanh cho cuộc chiến Thường Châu


Chiến tích Thường Châu không có nghĩa là chúng ta giỏi hơn, mạnh hơn các đối thủ. Ngay tại Giải U23 Châu Á này, có rất nhiều những đội khác có trình độ cao hơn, mạnh hơn, khỏe hơn chúng ta, nhưng đã gục ngã trước đội U23 Việt Nam. Đó là một thực tế chúng ta cần phải nhìn nhận cho sòng phẳng. U23 Việt Nam chiến thắng nhờ trước tiên là vào một ý chí quật cường không khuất phục, đấu pháp hợp lý, tự tin thể hiện hết khả năng chuyên môn, và một phần may mắn. Một người bạn tôi - cựu hảo thủ một thời đã đúc kết bằng một câu khiến tôi cứ phải trằn trọc suy ngẫm mãi: “Các em đá quá hay, quá tuyệt vời, và chúng ta phải ăn mừng thật lớn, vì sẽ rất lâu chúng ta mới có cơ hội làm điều đó nữa…”

Đó là gì, nếu không phải là một nhận hiểu trầm tĩnh là hiện chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ Châu Á?

Điều đó chẳng sao.

Kém hơn Pháp, chúng ta vẫn có một Điện Biên Phủ.

Thua xa Mông Cổ, chúng ta vẫn có được những Hàm Tử, Chương Dương.

…và những Chi Lăng, Đống Đa, Như Nguyệt…


Vậy thì, sao có thể không nghĩ về một khả năng thu hồi Hoàng Sa?

Thứ Ba, 16 tháng 1, 2018

NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU – NHÀ TRÍ THỨC
Phan Thành Nhơn



Nguyễn Đình Đầu – nhà “Việt địa bạ học”
Có những tác giả mà tên tuổi có thể được khẳng định qua chỉ một công trình. Công trình nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn đáng để được xem là một trường hợp như thế. Ngay sau khi ra đời những tập đầu tiên vào những năm 1990, bộ sách này đã gây được tiếng vang trên các diễn đàn nghiên cứu lịch sử trong và ngoài nước, được cả giới nghiên cứu và giới bạn đọc phổ thông đón nhận nhiêt tình. Cầm lên một quyển trong số đó, ta có thể hiểu ngay độ dày công phu, chiều sâu tổng hợp của người chủ trì công trình đó: Bác Nguyễn Đình Đầu.
Vết những lời tán dương công trình ấy, thiết nghĩ cũng là hành động thừa. Đã quá nhiều bài báo ngợi ca. Đã quá nhiều sự nhận biết và ngưỡng mộ.
Tuy nhiên chỉ khi tiếp cận với khối lượng khổng lồ các phiếu ghi chép tỉ mỉ, với rất nhiều những bản thảo khác nhau được dập ghi sửa đè, trao đổi qua lại với nhà xuất bản, với chi chít những ghi chú, với những thư từ qua lại của ông và các học giả trong ngoài nước liên quan đến việc thành hình quá trình “bạch hóa” khối tài liệu địa chính quốc gia của thế kỷ XIX, chúng ta mới thật sự hiểu rằng, tác giả đã tốn công sức thời gian và tâm huyết, nghị lực  ở mức độ đáng khâm phục để làm một điều mà trước kia và có thể cả sau này, không có ai làm được, hay nói cách khác, khó  có ai có được sự  bền chí như ông để đi đến tận cùng hoài tâm học thuật ấy.
Một nguồn tài nguyên quý giá tưởng chừng bị khóa kỹ, đã được mở ra cho tất cả mọi người.
Và quả ngọt đã đến từ lao động ấy: khi nói đến hai từ “địa bạ”, người ta nghĩ ngay đến tên ông chứ không thể là ai khác, và khi nói đến Nguyễn Đình Đầu, người ta kính nể gọi ông là “nhà địa bạ học”.

Nguyễn Đình Đầu – nhà cương vực học
Trong lĩnh vực nghiên cứu cương vực Việt Nam qua các thời kỳ, thì có thể ví von thú vị rằng, chính ông đã trở thành “tài nguyên quốc gia”. Tài nguyên đó không nằm ở khối lượng khổng lồ các bản đồ mà ông sưu tầm được để phục vụ nghiên cứu. Tài nguyên đó nằm ở những hiểu biết đa chiều, liên ngành của ông, để có thể diễn dịch từng tấm bản đồ vô tri đó thành lịch sử dân tộc, một lịch sử của mồ hôi và xương máu. Đặc biệt, ông đã góp được một tiếng nói vô cùng quan trọng trong quá trình khẳng định chủ quyền biển đảo của đất nước, đóng góp những bằng chứng  khoa học chứng minh cho chính nghĩa lịch sử của Việt nam trong những tuyên bố chính thức của quốc gia.
Sách ông ra liên quan đến những vấn đề về cương vực, biên giới, hải đảo cũng khá là dày dặn, từ những công trình riêng có ban đầu cho đến những công trình của nhà nước – cho nhà nước những năm gần đây. Hy vọng đến một ngày nào đó, tất cả những nghiên cứu ấy sẽ được tập hợp và hệ thống hóa lại trong một “tập đại thành” về cương vực, để ghi dấu cho ông như là một nhà cương vực học hàng đầu.



Nguyễn Đình Đầu – nhân chứng lịch sử
Có thể gọi ông là con người của “hai góc nhìn, ba sự kiện”
Hiếm ai có may mắn như ông, được tận mắt chứng kiến – thậm chí ở một mức độ nào đó tham dự vào ba sự kiện lớn của dân tộc: sự kiện Giành-Độc-Lập năm 1945, sự kiện Đạt-Hòa-Bình năm 1954 và sự kiện Được-Thống-Nhất năm 1975. Chúng ta biết rằng, Độc lập, Hòa bình, Thống nhất đã từng là niềm ước ao đằng đẵng của mấy thế hệ, trải dài qua hai thế kỷ XIX-XX.
Năm 1945, hai mươi lăm tuổi, chỉ trong vòng vài tháng – từ tháng 6 đến tháng 8 của năm, người thanh niên Công giáo Nguyễn Đình Đầu lần lượt tham gia vào bộ máy hành chính của hai chính phủ: Chính phủ Trần Trọng Kim, với tư cách Giám sát Lao công Bắc kỳ đồng thời là Hội trưởng của phong trào Thanh Lao Công (Thanh niên lao động Công giáo  - JOC) Hà Nội; và chính phủ Hồ Chí Minh, với tư cách là Tổng giám đốc Tổng nha Lao động toàn quốc.
Nền Độc lập của nước nhà lần đầu được khẳng định từ chính những người Việt Nam sau quá trình bị ngoại bang đô hộ tám mươi mốt năm ròng rã.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cuộc kháng chiến trường kỳ ấy đã tạo dựng đỉnh cao chiến thắng Điện Biên Phủ của quân đội Việt Minh trước quân đội Pháp, dẫn đến cuộc hòa đàm Genève. Khi đó ông Đầu đang ở Pháp, chung lập trường ủng hộ chính phủ Việt Minh như các bạn bè của ông: Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Xuân Hãn, những người cũng từng tham gia cả hai chính phủ Việt Nam hình thành năm 1945 xưa kia. Và ông thể hiện lập trường bằng hành động cụ thể: Báo Thống Nhất với chủ trương ủng hộ thống nhất đất nước, ủng hộ việc Pháp đàm phán với chính phủ Hồ Chí Minh được in ngay tại Paris và do ông Đầu làm Tổng biên tập.
Bằng Hiệp định Geneve ấy, Hòa bình đã được tuyên bố lập lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam [cho dù nó một lần nữa đổ vỡ, sáu năm sau đó], sau chín mươi năm chiến đấu.
Sau Hòa bình, Nguyễn Đình Đầu về sinh sống ở Sài Gòn với chuyên môn nhà giáo và nghiên cứu sử địa. Tuy nhiên, có lẽ lịch sử đã định cho ông luôn phải đóng một vai nào đó trên vũ đài chính trị quốc gia. Ông chọn cho mình con đường của “Lực lượng thứ ba” và luôn trung thành với con đường đó, một lựa chọn đem đến cho ông không ít những sóng gió phẩm bình, những ngại ngần lo sợ cũng như những tác động lôi kéo của không chỉ một bên. Ông cũng thật bản lĩnh để có thể vượt lên trên những sóng to gió lớn mà cả dân tộc đã phải chống chỏi trong thời kỳ đó.
Một lần nữa, ông xuất hiện trong những ngày cuối cùng của Tháng Tư năm 1975, như một người lao công của lịch sử, một từ khiêm tốn nhưng đã gắn bó theo ông từ ngày mới dấn thân: thanh tra lao công, hội thanh niên lao động… Ông đã đóng tròn vai, và có thể nói, góp được một phần trong kết thúc phù hợp của cuộc chuyển giao Tháng Tư.
Ông đã tham gia vào sự kiện dân tộc trọng đại thứ ba trong đời mình như vậy đó.
Sau 1975, ông vẫn tham gia tích cực vào những hoạt động chính trị và tôn giáo, trong phạm vi mà ông có thể: vai trò trong Hội Bảo trợ nhà trường những năm đầu tiên, vai trò trong Tiểu ban Nhân sĩ, trong Mặt trận Tổ Quốc, và đặc biệt có những tác động không nhỏ trong quá trình tạo dựng sự thấu hiểu giữa chính quyền và Tòa Tổng Giám mục. Các hoạt động nghiên cứu của ông trong phạm vi thành phố cũng như phối hợp với đội ngũ trí thức phía Bắc  cũng rất nhanh chóng được tạo lập và duy trì thường xuyên.
Nếu như thời kỳ trước đó, ông đã từng là Giám đốc sáng lập của tờ báo Công giáo “Sống Đạo” thì xuyên suốt sau ngày Thống nhất cho đến tận hôm nay, ông miệt mài viết cho Công giáo và Dân tộc. Ông thực hiện nghĩa vụ con Chúa bằng chính ngòi bút của mình.
Với một lý lịch hoạt động như thế, chúng ta không lạ khi ông có cơ hội tiếp cận và đôi khi là được làm việc cùng những tên tuổi lớn, những yếu nhân, cho dù ở phía bên này hay phía bên kia, cho dù là chính trị gia hay là nhà khoa học thuần túy: Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Ngô Đình Nhu, Bửu Lộc, Phạm Ngọc Thảo, Dương Văn Minh, Lý Chánh Trung, Trần Bạch Đằng, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Bình, Cao Văn Luận…
Vì lẽ ấy, xin được gọi ông là con người của hai góc nhìn lịch sử.
Phát biểu về ông, vị lão thành cách mạng Nguyễn Trọng Xuất nói: “tôi quý mến bác Nguyễn Đình Đầu như là một nhà nghiên cứu cẩn trọng, trung thực, dám nghĩ và dám nói thẳng những suy nghĩ của mình. Bác đã hoàn thành những công trình rất quý báu mà không phải ai cũng có thể làm được, có những hướng khám phá độc đáo, chẳng hạn như khám phá về vị trí cầu tàu thật sự mà Bác Hồ đã từ đó ra đi tìm đường cứu nước. Nghiên cứu của bác luôn dựa một cách cẩn thận và vững chắc trên cơ sở tư liệu mà bác tìm tòi. Cho dù quan điểm đánh giá một số thực tiễn lịch sử giữa tôi và bác có khác nhau đi nữa, thì như chính bác Đầu phát biểu, tôi và bác luôn là những người bạn tâm giao, luôn luôn quý trọng nhau”.
Đó cũng là cảm nhận chung mà nhiều người, nhiều giới dành cho ông.


Gian Thương bạc hãnh – quyển tiểu thuyết xưa với niềm hoài niệm chưa phai cũ…
Trà Điêu



Tôi soạn lại bộ sưu tập của mình và chợt chú ý đến tập sách mỏng có tựa đề “Gian Thương bạc hãnh”.
Sách do tác giả Trần Hữu Độ tự Quân Hiền biên soạn và được Nhà in Huỳnh Kim Đảnh xuất bản tại Sài Gòn chín mươi tám năm về trước, năm 1919. Từng trang sách nay đã ố vàng và giòn gãy.

                                                  

Mười sáu trang, “tiểu thuyết” ngày xưa đôi khi chỉ là thế, tác phẩm thật đơn giản và ngắn gọn, tuy nhiên nó khơi gợi lên được những niềm hoài cảm thật sâu xa.
Bối cảnh tiểu thuyết là làng Khánh Lân, một làng quê nhỏ Miền Tây Nam Bộ những năm đầu tiên của thế kỷ Hai mươi. Nhân vật chính là cô Huỳnh Hạnh Sương, một thôn nữ hiền lành con nhà bình dân; gia đình ấy chuộng nghĩa Thánh hiền nên đã rước thầy về dạy chữ cho các con.
Cha mất, cảnh nhà khó khăn, dựa theo mai mối của vị Hương sư trong làng, người mẹ cô cho một người khách trú làm tài phú một tiệm Hoa kiều trên chợ, nơi ngày ngày cô qua lại mua bán đắp đổi, và lọt vào mắt xanh của gã.
Gian Thương, tay tài phú ấy, tay trắng từ Trung Hoa qua đất Việt, cũng là một kẻ căn cơ tiện tặn, sau khi lấy cô Hạnh Sương, ra lập tiệm riêng, vợ chồng chung tay buôn bán lần hồi phát triển, và sinh được hai trai. Khi con trai lớn trên mười tuổi cũng là khi Gian Thương đã nặng túi, bèn dắt con trai lớn phản hồi Trung quốc gửi lại học hành, gom hết chin mười ngàn bạc về xây nhà cho vợ lớn, xây mồ mả cho tổ tông, báo công dòng họ. Gã giao lại Hạnh Sương vài mươi đồng chi dụng cho hai mẹ con ở lại.
Quay lại Việt Nam, Gian Thương tiếp tục làm ăn tấn phát. Đến năm 1919 xảy ra cuộc bài trừ thương mãi với người Hoa, tiệm nhà Gian Thương chung cảnh ế ẩm, gã quay qua chửi vợ mắng con, lôi cả cha vợ đã qua đời ra xách mé. Đến ngày kỵ cha, Hạnh Sương lủi thủi dắt con về dự, kể lể sự tình cùng mẹ… rồi phận gái cũng phải về nhà chồng. Tủi thân buồn phận, cô đổ bệnh rồi qua đời. Cô để lại lá thư cho người em gái Hạnh Tuyết với hai bài Trách đời, có những câu vần sầu thảm:
                        “Phong trần ngao ngán kiếp long đong
                        Bạc mệnh buồn cho phận má hồng
                        …
                        Nhủ lại đồng bào, trang thiếu nữ
                        Duyên lào, nợ khách chớ nên mong…”
Tác giả không quên kết thúc câu chuyện bằng việc đặt vào thêm dăm ba bài thơ, câu liễn, như cách viết của văn chương thời ấy, trong đó có câu liễn viếng của các cô vợ chệc tại chơ Khánh Lân:
            “Mọi nỗi thương tâm, cảnh khổ giọi ra muôn triệu thảm,
Một giây bạc mạng, trời Nam kể biết mấy trăm người.”
Và câu liễn của Huỳnh Hạnh Tuyết thờ chị, như sau:
            “Đã mấy thu mang tiếng có chồng, khác thói lạ hơi nín nẵm tợ đứa câm ăn ớt,
            Rủi một phút ai nhìn là vợ, than thân tủi phận bơ vơ hơn thằng Mỗng đi đường!”
Là một tiểu thuyết, nhưng tác phẩm cho người đọc cảm giác đang xem một phóng sự dựa trên câu chuyện có thật, người thật, việc thật. Thời gian được chỉ định tường tận có ngày có tháng có năm.  Làng quê nhỏ được tác giả nhắc đến ấy, có tên là làng Khánh Lân, thuộc tỉnh Trà Vinh. Đúng là trong danh sách các làng thuộc tỉnh Trà Vinh thời kỳ này không có làng Khánh Lân, nhưng lại có làng Khánh Lộc thuộc tổng Bình Phú, thú vị thay lại nằm ngay liền ranh làng Huyền Thạnh tổng Ngãi Hòa Thương là quê hương của chính tác giả Trần Hữu Độ, vậy phải chăng Khánh Lân là cách ám thị tinh tế về Khánh Lộc, nơi những nhân vật cùng thời được nhắc trong tác phẩm vẫn còn ngay đó?





Trong quản lý nhân khẩu xứ Nam Kỳ (Cochinchine), chính quyền thuộc địa chia làm bốn đối tượng: người An-nam, người Minh-hương, người Tàu (Chinois) và người ngoại quốc khác. Rõ ràng, sự phân biệt hai đối tượng có cùng yếu tố nhân chủng học: Minh Hương và Tàu, là có chủ ý, thể hiện sự quan tâm quản lý đặc biệt đối với thế hệ người “Tàu mới” mới sang xứ này những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Họ có gì mới và khác những người “Tàu cũ”? (Trong bài viết này, xin dùng thuật ngữ “Tàu” thay cho “Trung Hoa” hay “Trung Quốc”, không do kỳ thị hay miệt thị, mà do tin rằng thuật ngữ này thể hiện sát sườn nhất bối cảnh và ngữ cảnh thời bấy giờ).


Khách thương người Hoa diễn trò để bán hang tại chợ Trà Vinh. Hình trong kho tư liệu Delcampe, chụp từ những năm 1930.

Rõ ràng, cùng một hành trình, và chậm hơn những người Minh Hương đi trước khoảng hai thế kỷ, những người “Tàu mới” này mang một vị thế, tâm thế, hoàn cảnh hoàn toàn khác tiền nhân của họ. Nếu trước kia chủ yếu là quan quân nhà Minh ra đi kềnh càng với thân bằng quyến thuộc, với tàu lớn của cải, thì những người “Tàu mới” này chủ yếu ra đi đơn độc, với đôi khi chỉ bộ áo trên người, chiếc bị sau lưng… Ra đi khi bản thân họ không kiếm sống nổi trên quê hương mình, nước Đại Thanh đen thui thũi đang tan nát trước họa đế quốc, nạn cát cứ và mồi á phiện. Họ là đối tượng không-được-chờ-đón.
Gian Thương là một điển hình như vậy.
Tác phẩm được viết và in trong năm 1919 và cũng đã kịp đưa vào trong đó một sự kiện nóng hổi, mới khởi nguồn vào tháng 8 cùng năm: sự kiện tẩy chay hàng hóa của người Hoa, khơi mào từ vài hàng cà phê ở Sài Gòn, bùng lên sau lá thư được xem là sỉ nhục Annam của Lý Thiên (chính lá thư này hơn một lần được nhắc đến trong tác phẩm), rồi lan ra khắp Nam kỳ và cả nước. Điều này được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng Gian Thương – Huỳnh Hạnh Sương, che đậy cho mối nguyên nhân sâu xa bất đồng chủng tộc. Cuộc tẩy chay này cho đến tận hôm nay, vẫn được xem là một cuộc đấu tranh tự cường đáng kể của người Việt trong lĩnh vực thương mãi, trong một hoàn cảnh thuộc địa đặc thù, có những đại diện là những cá nhân ưu tú của thời đại khi ấy. Nhiều tài liệu đã phân tích các khía cạnh này.
Từ một làng quê xa lắc thị thành, từ gác viết được gọi tên là “Bạch Mai hiên”, tác giả Trần Hữu Độ tỏ ra thật nhanh nhạy cùng thời cuộc, và cũng thật tài tình trong việc mượn cảnh tả tình, mượn tình dựng cảnh. Cảnh tình này thể hiện sống động nhưng đầy chua xót qua câu chửi vợ của Gian Thương: “Tiểu na má, cha mầy xống dậy chưa? Biểu ló da đây tẩy chây tao ly!”
Huỳnh Hạnh Sương tiêu biểu cho hàng ngàn, hàng chục ngàn những người phụ nữ khắp hang cùng ngõ hẻm Nam Bộ có chồng khách trú, bất cứ nơi đâu những người khách này có thể tìm tới, bám trụ và sinh sống. Có chồng, có con, mất con, và nếu kém may mắn, bị chồng ghẻ lạnh – do bất đồng văn hóa, bất đồng ngôn ngữ, do bản tính ích kỷ tụ thủ của những kẻ tứ cố vô thân, lang bạt đất khách quê người, sinh ra lắm những mưu toan. Lịch sử liệu có lặp lại hay chăng, trên một cung bậc khác? Hình như cũng manh nha đâu đó, đâu đó trên xứ Việt Nam.
Bản thân cô ruột của người viết bài này, cũng lấy một người chồng là khách trú người Hẹ có tiệm thuốc Bắc lớn nhất chợ huyện Cầu Kè, và cũng đã gửi người con trai đầu tiên trở về quê cha ăn học như bao đứa trẻ mang hai dòng máu Hoa Việt đồng trang lứa, để rồi không bao giờ bà còn có thể gặp mặt lại người con ấy nữa… Đến khi nhắm mắt xuôi tay, bà vẫn đăm đắm nhìn về phương Bắc. Cuộc tang thương 1949 của đất nước Trung Hoa đã chia cắt hai bên, người con ấy từ giã thân phận ấm tử trở thành nông dân công xã lam lũ bốn mùa. Mấy mươi năm sau, những đứa em ruột cháu ruột chưa từng gặp mặt anh hay cậu, cũng qua một trận bể dâu khác, theo những con thuyền “bán chính thức” bập bềnh sóng nước gửi thân tận phương trời Bắc Mỹ, tìm lại được mà mừng mừng tủi tủi với chàng trai – nay đã thành ông lão kia… Thân phận con người đẩy đưa cùng thời cuộc, trôi khắp cùng trời cuối đất.
Nhìn về góc độ nghệ thuật của “Gian Thương bạc hãnh”, điểm nổi bật nhất là nhìn vào tác phẩm, chúng ta có thể thấy được rõ nét những ngôn ngữ thường ngày của thời kỳ đó, mà đâu đây vẫn còn lưu lại trên miền đất  Nam Bộ hôm nay. Không có cách mô tả tốt hơn là việc chúng ta cùng đọc một đoạn trích từ tác phẩm. Hãy xem một đoạn đối thoại giữa Huỳnh Hạnh Sương và mẹ, dưới ngòi bút của tác giả Trần Hữu Độ:
“Huỳnh bà nói:
-        Không biết thế gì mà Annam ta đồng hè nhau không chịu mua bán với chệc cái cũng lạ. Ấy cũng trời khiến cho chệc về Tàu sao chớ? Nghe nói Sài-gòn, Chợ-lớn họ làm còn hung nữa cà. Vậy con có nghe tại làm sao không?
Hạnh Sương nói:
-        Ối, trời nào khiến má. Annam ta ngày nay biết nòi giống, biết tương thân tương ái nhau thấy khách-trú choán cái lợi quyền của mình, nên kết đoàn thể cùng nhau mà tranh thương với nó chớ lạ gì?
Huỳnh bà nói:
-        Con nói Annam biết nòi giống, biết đoàn thể, sao bữa hổm cậu hai mầy đi hầu thầy cai về nói thẩy dặn các làng đừng bắt chước theo mấy người làm bậy, hảy cứ mua bán với chệc như thường. Cậu hai mầy nó học lại mà nó cũng cười ngất.
Hạnh Sương nói:
-        Theo ý má tưởng cho thầy cai ra làm sao.
Huỳnh bà nói:
-        Như thầy cai mà có lòng binh vực chệc như vậy cũng là khá cho vợ chồng con lắm chớ.
Hạnh Sương nói:
-        Má nói thì con không dám cải, chớ kỳ thiệt con không cám ơn thẫy một chút. Nếu theo như cái thơ của Lý Thiên nó nhục mạ Annam đó, nó có chừa ai đâu, hể người nào là Annam đều phải chịu lấy sự nhục nhả ấy! Thầy cai thẩy tính cho Lý Thiên nó chừa thẩy nên thẫy biểu các làng cứ việc mua bán với khách. Sức đổi con đây có chồng chệc, đáng lẻ con không giận Lý Thiên, song nghe mấy lời nó mắng Annamm con còn chịu không nổi thay, huống chi thầy cai là phận đờn ông râu mày rở rở, thẩy lại không biết cái nghĩa vụ làm người đứng trong nước. Thẩy đã riêng lòng nguội lạnh thì đành phận thẩy, rồi lại còn giục tắc lòng dân là nghĩa lý gì?
Huỳnh bà nói:
-        Húy con ôi! Rừng có mạch, vách có tai đa con, đừng có nói lếu mà phải khốn khổ. Chổ này là chổ quyền thế của người ta, ngày sau mà thẩy nghe đặng mấy lời con nói đây, không dể giún gì. Con thiệt dại hết sức, đầu con có lòng thương Annam thì để bụng chẳng nên nói vơ không nên.
Hạnh Sương nói:
-        Ối! Hơi đâu mà sợ má, con người ở đời hể việc gì đáng nói thì nói, dầu ai thương ghét gì lại bỏ phép đặng hay sao mà sợ. Con nói thiệt, nếu ngày sau mà thầy cai thẩy nghe đặng mấy lời con nói đây, dẫu thẩy có ỷ quyền thế mà kiếm chuyện hại con đi nữa, con cũng cam bụng chịu. Song thẩy là người cũng có hiểu chút ít đạo thánh hiền. Thẩy phải nhớ câu: Nhượt tương thế lực nguy thiên hạ; Tất hữu thiên điều tại ám trung chớ chẳng không.
Huỳnh bà nói:
-        Nói vậy con nầy khi qua ở chung với thầy cai bên sông kia một nhà đặng phải chơi gì.
Hạnh Sương nói:
-        Sao, má nói thầy cai bên sông kia làm sao?
Huỳnh bà nói:
-        Cũng như mầy vậy đa, cũng ghét chệc. Khuyên lơn Annam biểu tuyệt giao với khách đừng mua bán, cứ mua đồ Annam. Còn nhà thẩy rang gạo nấu nước uống, không thèm mua trà. Mỗi bửa sớm mai lên chợ giảng dụ Annam biểu lập tiệm buôn bán tranh thương với chệc, người nào xướng ra lập tiệm chi buôn bán, tức thì thẩy cho một trăm đồng bạc.
Hạnh Sương nói:
-        Phải đa! Ở đời như thầy cai đó vậy mới khỏi tiếng uổng sanh ở trong trời đất, mới là đánh kỉnh, đáng sợ, đáng thương, đáng mến cho chớ. Má biết làm sao mà thầy cai đó không sợ tốn hao chăng? Ấy là thẩy biết cái nghỉa vụ làm người trong nước, thẩy thấy bọn kiều khách đã lấy của Annam ta ăn cho ngập mặt, rồi trở lại chưởi mắng người bổn quốc ta nên xúc cái nghĩa phẩn của thẩy dầu tốn hao cho bao nhiêu thẩy cũng vui lòng chẳng chút sợ. Con ước ao, làm sao trong lục châu hết hảy mấy trăm mấy ngàn thầy cai đều một lòng một dạ như thầy cai nầy, thì lo chi cuộc thương của Annam ta mà không thành tựu được…”
Hãy bỏ qua những dễ dãi hỏi ngã của thời kỳ ấy, bỏ qua cách gọi “chệc” mà ngày nay chúng ta đả phá… Chúng tôi muốn trích dẫn lại một cách chân thực nhất có thể. Đoạn văn ngắn này cho chúng ta hiểu về nhiều điều của thời kỳ ấy: suy nghĩ, cách nhìn nhận, thói quen, lối sống, ứng xử, các mối quan hệ trong gia đình hay làng xã, cách thức xưng hô, hoàn cảnh lịch sử, phát âm, từ ngữ đặc trưng vùng miền và giai kỳ,… và đọc kỹ, chúng ta có thấy thấm thía một điều gì đó hay chăng? Người này người kia, khác biệt trong suy nghĩ và hành động cho dù chung một mô thức xã hội, phải chăng thời kỳ nào cũng có?
Một câu chuyện tiêu biểu của một thời kỳ tiêu biểu.
Đáng tiếc thay là tác phẩm quá ngắn. Nhưng cũng là phải trong tình hình in và đọc khi ấy. Sách mỏng, giá rẻ cho những bạn đọc mới làm quen chữ quốc ngữ là chị bán rau tranh thủ buổi chợ, cụ xã trưởng kêu con cháu đọc nghe bên bàn thuốc phiện buổi đêm… Phải ngắn gọn vậy thôi.
Dù sao, câu chuyện này đủ chất liệu cho ta có thể tưởng tượng ra một trường thiên tiểu thuyết dày dặn hơn nhiều. Gần như song song hay ngay sau những năm 1919-1920 đó, là sự nở rộ của văn chương tiểu thuyết miền Nam với những Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phạm Minh Kiên,…
Để kết thúc, xin được lý giải về tên sách. Tác giả đặt tên cho nhân vật là “Gian Thương”, cũng là một điều chơi chữ đầy ngụ ý. Còn “bạc hãnh” cũng là hai từ tác giả đưa vào bài thơ “Hựu vịnh Gian Thương, bạc hãnh” ở gần cuối sách, mà tác giả ghi thẳng tên mình là tác giả bài thơ, như cách đưa chính mình vào làm một nhân vật trong tác phẩm: người chứng kiến, và điều này một lần nữa củng cố nhận định đây là một câu chuyện có thật xảy đến kề bên tác giả, để ông không thể kiềm chế thương cảm mà vội ghi nhận lại.
Bạc hãnh, chính là bạc bẽo và lấc xấc.

Xin được cám ơn những người khai phá như Trần Hữu Độ.