Thành tâm hồi hướng, cơ hội cuối
cùng của giới lãnh đạo Việt Nam
(Blog bs HH) Một bài viết tâm huyết
của một người bạn, trí thức nhưng xin được giấu tên, gửi cho tôi đăng dùm trên
blog, như một lời nhắn gửi của 1 người con yêu nước. 2014
Giặc trong cửa ngõ
Giặc đã vào nhà. Hãy cùng nhau nói
chuyện lần cuối. Chúng ta sẽ không còn thời gian, cơ hội hay cảm xúc, lòng tin
để nói với nhau thêm lần nữa.
Nước Việt Nam tôi, khi bên ngoài có
giặc thì trong cõi lại tạm yên để hợp lực chống kẻ thù chung, khi bên trong nồi
da xáo thịt thì thường cũng may mắn vắng bóng kẻ thù bên ngoài… Mấy nghìn năm
lịch sử, cũng chỉ đôi lần thiếu mất sự đồng tâm, khi kẻ xâm lăng đã xông thẳng
vào nhà.
Năm 1407, một Nhà Hồ không thua kém
Nhà Trần tại thời điểm ngay trước đó bất cứ điều gì, nếu không muốn nói là một
sự thay thế mang tính tiến bộ, đã vì không có được lòng dân mà mất nước, mất
nhà, nhưng vẫn nêu được tấm gương kiên tâm chống giặc. “Thần không sợ đánh, chỉ
sợ lòng dân không theo”, Hồ Nguyên Trừng đã nói thế. Cuối cùng, Nhà Hồ đã đánh.
Việt Nam đã đánh. ĐÁNH, dù biết trước cuộc thua.
Năm 1862, Nhà Nguyễn khiếp nhược và
bất lực trước đại bác Phương Tây, kìm nén sức dân để đất nước rơi vào một cuộc
đô hộ trăm năm, cội nguồn nhiều đổ vỡ ly tán dân tộc còn đến tận hôm nay.
Năm 2014 này, năm của thế hệ chúng
tôi đang sống, nguy nghịch thay cho đất nước Việt Nam, một lần nữa lại bị rơi
vào cảnh ấy, và có phần còn tệ hại hơn thế nữa. Trong bối cảnh đó, lòng dân
đang ở đâu? Và giới cầm quyền đang ở đâu?
Ngay lúc này đây, đứng trước quốc
dân và đứng trước lịch sử dân tộc, giới cầm quyền Việt Nam đang nghĩ gì và làm
gì?
Đang hòa hoãn với giặc. Đang đưa ra
những câu nói bất hủ sẽ còn gieo khối nhục ngàn năm.
Tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây,
giặc nước vào nhà, thì đuổi sứ, cắt bang giao, đóng cửa biên giới, huy động
quân bị, chứ có thấy ai hùng hồn tuyên bố “kiên quyết không sử dụng… vũ lực”
hay chưa vậy tổ tiên đất nước này!
Sợ giặc à? Tự thâm tâm, tôi còn chưa
nghĩ thế.
Sợ mất chế độ.
Sợ đánh giặc thì một cuộc sụp đổ
kinh tế dẫn đến một cuộc sụp đổ chính trị. Kinh tế nước nhà đang lệ thuộc vào
giao thương với nước giặc. Giới cầm quyền đã không dám vào cuộc “tiêu thổ kháng
chiến” như cha ông những năm 1258, 1285; hay như chính tiền nhân của họ năm
1946.
Cũng như Nhà Hồ, giới lãnh đạo hiện
nay hiểu rõ lòng dân đang không theo. Nhưng thuận lợi cho họ hơn Nhà Hồ, giặc
hiện nay không thể đánh rát như cha chú của chúng trước đây, mà phải dùng chiến
lược tằm ăn dâu. Bản thân giặc cũng đang có những khó khăn nội tại chồng chất,
thậm chí là nguy cơ tan rã quốc gia. Và như thế, có thời gian cho giới cầm
quyền Việt Nam lấy lại lòng tin từ người dân, bằng những hành động thực tiễn.
Trước khi đề cập đến những đòi hỏi
hành động đó, hẵng cùng điểm qua một lịch sử gần.
Nhìn qua quá khứ
Cùng nói về cái chế độ mà họ đang sợ
đánh mất: chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Làm gì có cái chế độ đó trên đất
nước này, ngày hôm nay, hay bất cứ ngày tháng nào mà dân tộc tôi đã sống qua.
Con đường Cách mạng Vô sản từ góc
nhìn của những năm 1930-1945 là một sự LỰA CHỌN, của thời điểm 1954-1955 là một
sự ĐÁNH ĐỔI, của năm 1975 là một sự HIỂN NHIÊN, của những năm 1989-1991 là một
sự NGỘ NHẬN và của thời kỳ năm 2010 đến nay là một sự LỪA DỐI.
Tại sao tôi gọi tên như thế?
Phải thừa nhận sự thật lịch sử là
thế hệ những người Cộng sản đầu tiên đem công cụ này về Việt Nam không ngoài
mục đích giải phóng dân tộc. Và công cụ đó tại thời điểm đó đã tỏ ra mạnh mẽ và
hiệu quả hơn hẳn [các giải pháp khác]. Do đó, hãy gọi đó là một sự Lựa chọn.
Đừng đánh giá họ đứng từ lăng kính của Thế kỷ XXI này.
Đáng thương cho dân tộc Việt Nam sau
Chiến tranh thế giới thứ hai đã rơi vào bàn cờ thế giới. Đó chính là thời khắc
toàn cầu hóa đấy, chứ nào phải đợi tới cuối thế kỷ XX đâu. Và số phận dân tộc
này đã bị các siêu cường quốc tế tung đi hứng lại. Trong cuộc mà cả toàn cầu
đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam (của cả hai bên) đã thực hiện những Đánh đổi đầu
tiên, đánh đổi việc bảo vệ lý tưởng của phe mình, bảo vệ quyền lực thống trị
của phe mình lấy sự chia cắt đất nước, lấy cuộc chiến 21 năm tiếp theo mà họ
cũng không tưởng tượng ra nổi vào cái năm 1954 đó. Một cơn lốc lịch sử khốc
liệt tang thương. Cuộc đánh đổi đã đẩy hẳn chính thể Việt nam Dân chủ Cộng hòa
vào phe Xã hội chủ nghĩa khi ấy.
Năm 1975. Người chiến thắng có bao
giờ phải thay đổi? Cả nhân loại xưa nay vẫn thế. Do đó, có thể xem định hướng
đất nước trong việc đổi tên gọi đầy cao vọng và không chút do dự vào năm 1976
như là một sự Hiển nhiên. Không thể đòi hỏi gì nhiều hơn logic thực tế đó. Vinh
quang chiến thắng của người lính Cộng sản Việt Nam huy hoàng hơn nhiều nhiều
nước XHCN Đông Âu – những nhà nước được ngoại bang dựng lên, hơn cả nước lớn
Trung Hoa còn chưa thống nhất.
Hai cuộc chiến Tây Nam và biên giới
phía Bắc sẽ mãi mãi còn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, cho dù chính thể
lãnh đạo hai cuộc chiến đó có còn tồn tại hay bị lịch sử chối bỏ. Giới sử học
quốc tế đã có nhiều tiếng nói nêu lại công lao chống diệt chủng của Việt Nam,
xóa dần những đánh giá bất công mang màu sắc chính trị hơn là lịch sử, của mươi
hai mươi năm trước… Đừng trách Việt Nam đã đóng quân quá lâu, những gì Việt nam
đã làm không khác Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, để bảo vệ an ninh chính đất nước
mình… Sự hy sinh của người lính Việt Nam 10 năm trên biên giới Tây Nam cần được
Tổ quốc thực sự ghi công. Cũng 10 năm ấy là sự hy sinh thầm lặng của bao chiến
sĩ trên biên giới phía Bắc và miền hải đảo.
Những năm 1989-1991. Giới lãnh đạo
Việt Nam bàng hoàng và lúng túng. Họ còn quá bận với hai cuộc chiến nêu trên.
Họ thực ra vẫn chỉ là những người lính chiến thắng mà thôi. Họ không hiểu những
gì đang xảy ra (tại Liên Xô và Đông Âu), cũng như trước đó họ chưa từng hiểu về
Liên Xô và Đông Âu. Ta nên biết, nếu quy chiếu máy móc, tầm nhìn, tâm thế của
họ vào năm 1990 (15 năm sau chiến tranh), phải tương tự các nước Đông Âu – Liên
Xô vào năm 1960 (15 năm sau chiến tranh), nhưng thực tế còn thậm tệ hơn thế do
đặc thù địa lý, văn hóa và xuất thân. Trung Hoa kế cận cũng đã có 41 năm hòa
bình độc lập (1949-1990). Các cuộc chiến biên giới tứ phương của Trung Hoa thật
ra chỉ mới là màn thủ đoạn trộm vặt của họ. Làm sao ta có thể đòi hỏi các nhà
lãnh đạo Việt Nam khi ấy đủ bản lĩnh, hiểu biết và sáng suốt? Thiếu hết những
thứ đó, họ đã rơi vào cạm bẫy Ngộ nhận do gã to xác nham hiểm giương ra.
Thật ra trước đó, trong kỳ Đại hội
năm 1986, Việt Nam đã manh nha một cơ hội cực kỳ quý báu để có thể tự thoát
thai. Đáng tiếc, cơ hội đó đã bị đánh rơi mất, khi những biến động Đông Âu xảy
ra hơi sớm (nhìn ở góc độ tác động đến bối cảnh Việt Nam) và quá quyết liệt,
khiến giới lãnh đạo Việt Nam giật mình nhảy ngay vào bẫy.Cái đáng sợ của sự lừa
dối là lừa dối huyễn hoặc cả chính bản thân mình.
Việt Nam 2010.
Xã hội Việt nam đã bắt đầu giống với
Đông Âu 1980. Trung Hoa 1985. Trong khi chính giới Trung Hoa may mắn có một
Đặng Tiểu Bình (tội đồ của nhân dân Việt Nam) và một số nhân vật chủ chốt khác
đã nếm đòn của chính nền Chuyên chính Vô sản, và khi nắm lại quyền đã lẳng lặng
vo tròn bóp méo nó; thì Việt Nam không có một nhân vật tương tự. Nhưng trên
thực tế lãnh đạo Việt Nam cũng đã đủ độ lùi thời gian để đọc hiểu cỗ xe lịch sử
hiện đại. Họ đã quá hiểu Chủ nghĩa Xã hội nằm ở chốn nào. Thế thì, đặt tên cho
ngọn cờ Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa trong tay họ lúc này là sự Lừa dối, có gì
quá đáng?
Cái họ đang sợ đánh mất có phải –
hay có còn – là chế độ Xã hội chủ nghĩa?
Có thể trong tâm tư thế hệ lãnh đạo
1986-1990 thì còn là thế thật – cái thế hệ lãnh đạo Ngộ nhận; nhưng trong tâm
địa thế hệ lãnh đạo hiện nay điều họ sợ đánh mất chỉ đơn thuần là cái quyền lực
thống trị cá nhân và tập đoàn mà thôi! Mượn Đảng (như cái công cụ) để trị dân.
Chính quyền đang tự đưa mình vào thế
đối lập với nhân dân, và đang tự tay mình hàng ngày hàng ngày châm thêm dầu vào
lửa.
Hy vọng bảo vệ chế độ hiện nay, đặt
hết vào hai bộ máy Công an và Quân đội.
Xin đặt một câu hỏi: Bảo vệ vì cái
gì, Lý tưởng hay Lợi ích?
Lý tưởng ư? Ôi thôi bản thân giới
lãnh đạo cũng đang hành xử như không hề mang lý tưởng đó, và họ cũng đủ tỉnh
táo tự biết mình không hề còn lý tưởng đó, thì chẳng lẽ không đủ tỉnh táo để
vứt bỏ đi niềm tự huyễn hoặc dựa vào đó để điều động nòng súng? (“Súng đẻ ra
chính quyền”, câu nói này của Mao có thể còn đúng một thời gian nữa, và mong
sao “chân lý” đó chưa kịp hủy diệt thế giới loài người trước khi nó bị đào
thải.)
Còn nếu dựa vào Lợi ích? Thế thì lợi
ích sát sườn mới là cơ bản, và khi lợi ích sát sườn được tọa độ hóa vào quảng
đại quần chúng, thì họng súng đó quay chỉ vào đâu, lịch sử thế giới cũng đã
nhiều lần chứng minh.
Thưa các nhà lãnh đạo, không phải
súng, không phải công an hay quân đội, ngày hôm nay chỉ một thứ có thể bảo vệ
được cho các anh, đó chính là Sự chấp nhận của Nhân dân.
Hãy thành tâm hồi hướng
“Hồi hướng” sử dụng trong khung cảnh
bài viết nhỏ này, có thể không trùng khớp với định nghĩa nguyên thủy trong Giáo
pháp; nhưng tôi vẫn muốn sử dụng từ này ở đây, vì đi chung với “thành tâm”, cụm
từ vừa mang ý nghĩa biến đổi nhận thức đi liền thay đổi hành động, và với nghĩa
đen của từng chữ tách riêng “hồi” và “hướng”, tôi không tìm được thay thế nào
hay hơn để diễn tả mong muốn cá nhân đối với giới cầm quyền hiện nay; mong muốn
một sự “tự giác hướng thiện”.
Trí thông minh và Lòng tham
Đối với đa số trong những người lãnh
đạo hiện nay, tôi không tin họ thiếu trí tuệ hay tri thức. Do có điều kiện tốt
hơn ở góc độ này góc độ khác, họ có được lợi thế trau dồi hiểu biết hơn đại bộ
phận những người công dân khác. Điều này lại càng đúng hơn với các thế hệ f2,
f3 của họ. Nhìn nhận một cách đơn giản nhất, chắc chắn họ phải có những tâm cơ
hơn hẳn người khác để trèo lên cao, cho dù cách trèo thế nào chăng nữa, thì
cũng phải vận dụng tâm cơ một cách linh hoạt. Họ có một bản chất ưu tú nhất
định.
Như vậy, lên án họ ngu dốt là không
đúng với thực tế. Họ đủ thông minh nếu không hơn thì cũng là bằng mức bình quân
của tất cả, tôi tin điều đó.
Họ có sự thông minh, có trí tuệ,
nhưng họ lạm dụng trí thông minh vào những động cơ đi ngược lại với quyền lợi
nhân dân mà họ đã giành được quyền đại diện, họ tự bịt mắt trí tuệ của mình. Họ
làm cho hình ảnh của họ trở thành ngu ngốc và ngớ ngẩn, nhưng họ không đoái
hoài điều đó, khi họ tin rằng lợi ích của họ vẫn đang được bảo toàn chu đáo.
Điều gì đang điều khiển con người họ
thay thế cho bản năng trí tuệ?
Chẳng có gì khác hơn Lòng tham.
Lòng tham có cơ hội phát triển và
thăng hoa, đã giết chết trí tuệ, giết chết nhiều tình cảm cá nhân khác trong
họ: lòng tự trọng, cảm giác biết xấu hổ, và nhiều thứ tình cảm thiêng liêng
khác: lòng yêu thương đối với quê hương đất nước, đối với đồng bào, lòng biết
ơn với tiền nhân, lòng kính Trời tin Phật (tôi tin 99% trong số họ tự thâm tâm
đã trở thành hữu thần từ lâu), sự chung thủy đối với niềm tin của đồng đội họ
đã ngã xuống cho đất nước này, cho chính thể họ đang lèo lái, cho họ có vị trí
lãnh đạo ngày hôm nay. Họ xổ toẹt vào những gì tốt đẹp còn sót lại, và làm rỉ
máu vết thương chia rẽ trong lòng dân tộc.
Chúng ta chẳng cần chỉ dạy cho họ
những điều cụ thể như: phải bỏ Điều 4 Hiến pháp, phải từ bỏ học thuyết Mac-xit,
phải đổi Quốc ca, thay Quốc hiệu…
Chúng ta chỉ mong một điều, họ đừng
để Lòng tham che mắt bịt tai, và vận dụng chính trí tuệ của họ để tỉnh trí nhìn
rõ một điều: nếu bản thân họ không “thành tâm hồi hướng”, tự giác thay đổi,
chìa bàn tay ra với nhân dân, với dân tộc, cùng nhân dân gánh vác chia sẻ họa
phúc, thì dòng thác lịch sử cũng sẽ cuốn phăng họ theo cách đẫm máu nhất cho
nhân dân Việt, và khi điều đó xảy ra, đau thương thay cho những người dân vô
tội lại phải nếm cảnh tang tóc lầm than, đau thương thay cho đất nước này mãi
ngụp lặn trong hận thù và đố kỵ.
Blog bs HH