Gian
Thương bạc hãnh – quyển tiểu thuyết xưa với niềm hoài niệm chưa phai cũ…
Trà Điêu
Tôi soạn lại
bộ sưu tập của mình và chợt chú ý đến tập sách mỏng có tựa đề “Gian Thương bạc
hãnh”.
Sách do tác
giả Trần Hữu Độ tự Quân Hiền biên soạn và được Nhà in Huỳnh Kim Đảnh xuất bản tại
Sài Gòn chín mươi tám năm về trước, năm 1919. Từng trang sách nay đã ố vàng và
giòn gãy.
Mười sáu
trang, “tiểu thuyết” ngày xưa đôi khi chỉ là thế, tác phẩm thật đơn giản và ngắn
gọn, tuy nhiên nó khơi gợi lên được những niềm hoài cảm thật sâu xa.
Bối cảnh tiểu
thuyết là làng Khánh Lân, một làng quê nhỏ Miền Tây Nam Bộ những năm đầu tiên của
thế kỷ Hai mươi. Nhân vật chính là cô Huỳnh Hạnh Sương, một thôn nữ hiền lành
con nhà bình dân; gia đình ấy chuộng nghĩa Thánh hiền nên đã rước thầy về dạy
chữ cho các con.
Cha mất, cảnh
nhà khó khăn, dựa theo mai mối của vị Hương sư trong làng, người mẹ cô cho một
người khách trú làm tài phú một tiệm Hoa kiều trên chợ, nơi ngày ngày cô qua lại
mua bán đắp đổi, và lọt vào mắt xanh của gã.
Gian Thương,
tay tài phú ấy, tay trắng từ Trung Hoa qua đất Việt, cũng là một kẻ căn cơ tiện
tặn, sau khi lấy cô Hạnh Sương, ra lập tiệm riêng, vợ chồng chung tay buôn bán
lần hồi phát triển, và sinh được hai trai. Khi con trai lớn trên mười tuổi cũng
là khi Gian Thương đã nặng túi, bèn dắt con trai lớn phản hồi Trung quốc gửi lại
học hành, gom hết chin mười ngàn bạc về xây nhà cho vợ lớn, xây mồ mả cho tổ
tông, báo công dòng họ. Gã giao lại Hạnh Sương vài mươi đồng chi dụng cho hai mẹ
con ở lại.
Quay lại Việt
Nam, Gian Thương tiếp tục làm ăn tấn phát. Đến năm 1919 xảy ra cuộc bài trừ
thương mãi với người Hoa, tiệm nhà Gian Thương chung cảnh ế ẩm, gã quay qua chửi
vợ mắng con, lôi cả cha vợ đã qua đời ra xách mé. Đến ngày kỵ cha, Hạnh Sương lủi
thủi dắt con về dự, kể lể sự tình cùng mẹ… rồi phận gái cũng phải về nhà chồng.
Tủi thân buồn phận, cô đổ bệnh rồi qua đời. Cô để lại lá thư cho người em gái Hạnh
Tuyết với hai bài Trách đời, có những câu vần sầu thảm:
“Phong trần ngao ngán kiếp
long đong
Bạc mệnh buồn cho phận
má hồng
…
Nhủ lại đồng bào, trang
thiếu nữ
Duyên lào, nợ khách chớ
nên mong…”
Tác giả không
quên kết thúc câu chuyện bằng việc đặt vào thêm dăm ba bài thơ, câu liễn, như
cách viết của văn chương thời ấy, trong đó có câu liễn viếng của các cô vợ chệc
tại chơ Khánh Lân:
“Mọi nỗi thương tâm, cảnh khổ giọi
ra muôn triệu thảm,
Một
giây bạc mạng, trời Nam kể biết mấy trăm người.”
Và câu liễn của
Huỳnh Hạnh Tuyết thờ chị, như sau:
“Đã mấy thu mang tiếng có chồng, khác
thói lạ hơi nín nẵm tợ đứa câm ăn ớt,
Rủi một phút ai nhìn là vợ, than
thân tủi phận bơ vơ hơn thằng Mỗng đi đường!”
Là một tiểu
thuyết, nhưng tác phẩm cho người đọc cảm giác đang xem một phóng sự dựa trên
câu chuyện có thật, người thật, việc thật. Thời gian được chỉ định tường tận có
ngày có tháng có năm. Làng quê nhỏ được
tác giả nhắc đến ấy, có tên là làng Khánh Lân, thuộc tỉnh Trà Vinh. Đúng là
trong danh sách các làng thuộc tỉnh Trà Vinh thời kỳ này không có làng Khánh
Lân, nhưng lại có làng Khánh Lộc thuộc tổng Bình Phú, thú vị thay lại nằm ngay
liền ranh làng Huyền Thạnh tổng Ngãi Hòa Thương là quê hương của chính tác giả
Trần Hữu Độ, vậy phải chăng Khánh Lân là cách ám thị tinh tế về Khánh Lộc, nơi những
nhân vật cùng thời được nhắc trong tác phẩm vẫn còn ngay đó?
Trong quản lý
nhân khẩu xứ Nam Kỳ (Cochinchine), chính quyền thuộc địa chia làm bốn đối tượng:
người An-nam, người Minh-hương, người Tàu (Chinois) và người ngoại quốc khác.
Rõ ràng, sự phân biệt hai đối tượng có cùng yếu tố nhân chủng học: Minh Hương
và Tàu, là có chủ ý, thể hiện sự quan tâm quản lý đặc biệt đối với thế hệ người
“Tàu mới” mới sang xứ này những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Họ có gì mới
và khác những người “Tàu cũ”? (Trong bài viết này, xin dùng thuật ngữ “Tàu” thay
cho “Trung Hoa” hay “Trung Quốc”, không do kỳ thị hay miệt thị, mà do tin rằng
thuật ngữ này thể hiện sát sườn nhất bối cảnh và ngữ cảnh thời bấy giờ).
Khách thương người Hoa diễn trò để bán
hang tại chợ Trà Vinh. Hình trong kho tư liệu Delcampe, chụp từ những năm 1930.
Rõ ràng, cùng
một hành trình, và chậm hơn những người Minh Hương đi trước khoảng hai thế kỷ,
những người “Tàu mới” này mang một vị thế, tâm thế, hoàn cảnh hoàn toàn khác tiền
nhân của họ. Nếu trước kia chủ yếu là quan quân nhà Minh ra đi kềnh càng với
thân bằng quyến thuộc, với tàu lớn của cải, thì những người “Tàu mới” này chủ yếu
ra đi đơn độc, với đôi khi chỉ bộ áo trên người, chiếc bị sau lưng… Ra đi khi bản
thân họ không kiếm sống nổi trên quê hương mình, nước Đại Thanh đen thui thũi đang
tan nát trước họa đế quốc, nạn cát cứ và mồi á phiện. Họ là đối tượng không-được-chờ-đón.
Gian Thương
là một điển hình như vậy.
Tác phẩm được
viết và in trong năm 1919 và cũng đã kịp đưa vào trong đó một sự kiện nóng hổi,
mới khởi nguồn vào tháng 8 cùng năm: sự kiện tẩy chay hàng hóa của người Hoa, khơi
mào từ vài hàng cà phê ở Sài Gòn, bùng lên sau lá thư được xem là sỉ nhục Annam
của Lý Thiên (chính lá thư này hơn một lần được nhắc đến trong tác phẩm), rồi
lan ra khắp Nam kỳ và cả nước. Điều này được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
mâu thuẫn vợ chồng Gian Thương – Huỳnh Hạnh Sương, che đậy cho mối nguyên nhân
sâu xa bất đồng chủng tộc. Cuộc tẩy chay này cho đến tận hôm nay, vẫn được xem
là một cuộc đấu tranh tự cường đáng kể của người Việt trong lĩnh vực thương mãi,
trong một hoàn cảnh thuộc địa đặc thù, có những đại diện là những cá nhân ưu tú
của thời đại khi ấy. Nhiều tài liệu đã phân tích các khía cạnh này.
Từ một làng
quê xa lắc thị thành, từ gác viết được gọi tên là “Bạch Mai hiên”, tác giả Trần
Hữu Độ tỏ ra thật nhanh nhạy cùng thời cuộc, và cũng thật tài tình trong việc
mượn cảnh tả tình, mượn tình dựng cảnh. Cảnh tình này thể hiện sống động nhưng
đầy chua xót qua câu chửi vợ của Gian Thương: “Tiểu na má, cha mầy xống dậy
chưa? Biểu ló da đây tẩy chây tao ly!”
Huỳnh Hạnh
Sương tiêu biểu cho hàng ngàn, hàng chục ngàn những người phụ nữ khắp hang cùng
ngõ hẻm Nam Bộ có chồng khách trú, bất cứ nơi đâu những người khách này có thể
tìm tới, bám trụ và sinh sống. Có chồng, có con, mất con, và nếu kém may mắn, bị
chồng ghẻ lạnh – do bất đồng văn hóa, bất đồng ngôn ngữ, do bản tính ích kỷ tụ
thủ của những kẻ tứ cố vô thân, lang bạt đất khách quê người, sinh ra lắm những
mưu toan. Lịch sử liệu có lặp lại hay chăng, trên một cung bậc khác? Hình như
cũng manh nha đâu đó, đâu đó trên xứ Việt Nam.
Bản thân cô
ruột của người viết bài này, cũng lấy một người chồng là khách trú người Hẹ có
tiệm thuốc Bắc lớn nhất chợ huyện Cầu Kè, và cũng đã gửi người con trai đầu
tiên trở về quê cha ăn học như bao đứa trẻ mang hai dòng máu Hoa Việt đồng
trang lứa, để rồi không bao giờ bà còn có thể gặp mặt lại người con ấy nữa… Đến
khi nhắm mắt xuôi tay, bà vẫn đăm đắm nhìn về phương Bắc. Cuộc tang thương 1949
của đất nước Trung Hoa đã chia cắt hai bên, người con ấy từ giã thân phận ấm tử
trở thành nông dân công xã lam lũ bốn mùa. Mấy mươi năm sau, những đứa em ruột
cháu ruột chưa từng gặp mặt anh hay cậu, cũng qua một trận bể dâu khác, theo những
con thuyền “bán chính thức” bập bềnh sóng nước gửi thân tận phương trời Bắc Mỹ,
tìm lại được mà mừng mừng tủi tủi với chàng trai – nay đã thành ông lão kia…
Thân phận con người đẩy đưa cùng thời cuộc, trôi khắp cùng trời cuối đất.
Nhìn về góc độ
nghệ thuật của “Gian Thương bạc hãnh”, điểm nổi bật nhất là nhìn vào tác phẩm,
chúng ta có thể thấy được rõ nét những ngôn ngữ thường ngày của thời kỳ đó, mà
đâu đây vẫn còn lưu lại trên miền đất
Nam Bộ hôm nay. Không có cách mô tả tốt hơn là việc chúng ta cùng đọc một
đoạn trích từ tác phẩm. Hãy xem một đoạn đối thoại giữa Huỳnh Hạnh Sương và mẹ,
dưới ngòi bút của tác giả Trần Hữu Độ:
“Huỳnh bà
nói:
-
Không
biết thế gì mà Annam ta đồng hè nhau không chịu mua bán với chệc cái cũng lạ. Ấy
cũng trời khiến cho chệc về Tàu sao chớ? Nghe nói Sài-gòn, Chợ-lớn họ làm còn
hung nữa cà. Vậy con có nghe tại làm sao không?
Hạnh
Sương nói:
-
Ối,
trời nào khiến má. Annam ta ngày nay biết nòi giống, biết tương thân tương ái
nhau thấy khách-trú choán cái lợi quyền của mình, nên kết đoàn thể cùng nhau mà
tranh thương với nó chớ lạ gì?
Huỳnh bà nói:
-
Con
nói Annam biết nòi giống, biết đoàn thể, sao bữa hổm cậu hai mầy đi hầu thầy
cai về nói thẩy dặn các làng đừng bắt chước theo mấy người làm bậy, hảy cứ mua
bán với chệc như thường. Cậu hai mầy nó học lại mà nó cũng cười ngất.
Hạnh Sương
nói:
-
Theo
ý má tưởng cho thầy cai ra làm sao.
Huỳnh bà nói:
-
Như
thầy cai mà có lòng binh vực chệc như vậy cũng là khá cho vợ chồng con lắm chớ.
Hạnh Sương
nói:
-
Má
nói thì con không dám cải, chớ kỳ thiệt con không cám ơn thẫy một chút. Nếu
theo như cái thơ của Lý Thiên nó nhục mạ Annam đó, nó có chừa ai đâu, hể người
nào là Annam đều phải chịu lấy sự nhục nhả ấy! Thầy cai thẩy tính cho Lý Thiên
nó chừa thẩy nên thẫy biểu các làng cứ việc mua bán với khách. Sức đổi con đây
có chồng chệc, đáng lẻ con không giận Lý Thiên, song nghe mấy lời nó mắng
Annamm con còn chịu không nổi thay, huống chi thầy cai là phận đờn ông râu mày
rở rở, thẩy lại không biết cái nghĩa vụ làm người đứng trong nước. Thẩy đã
riêng lòng nguội lạnh thì đành phận thẩy, rồi lại còn giục tắc lòng dân là
nghĩa lý gì?
Huỳnh bà nói:
-
Húy
con ôi! Rừng có mạch, vách có tai đa con, đừng có nói lếu mà phải khốn khổ. Chổ
này là chổ quyền thế của người ta, ngày sau mà thẩy nghe đặng mấy lời con nói
đây, không dể giún gì. Con thiệt dại hết sức, đầu con có lòng thương Annam thì
để bụng chẳng nên nói vơ không nên.
Hạnh Sương
nói:
-
Ối!
Hơi đâu mà sợ má, con người ở đời hể việc gì đáng nói thì nói, dầu ai thương
ghét gì lại bỏ phép đặng hay sao mà sợ. Con nói thiệt, nếu ngày sau mà thầy cai
thẩy nghe đặng mấy lời con nói đây, dẫu thẩy có ỷ quyền thế mà kiếm chuyện hại
con đi nữa, con cũng cam bụng chịu. Song thẩy là người cũng có hiểu chút ít đạo
thánh hiền. Thẩy phải nhớ câu: Nhượt tương thế lực nguy thiên hạ; Tất hữu thiên
điều tại ám trung chớ chẳng không.
Huỳnh bà nói:
-
Nói
vậy con nầy khi qua ở chung với thầy cai bên sông kia một nhà đặng phải chơi
gì.
Hạnh Sương
nói:
-
Sao,
má nói thầy cai bên sông kia làm sao?
Huỳnh bà nói:
-
Cũng
như mầy vậy đa, cũng ghét chệc. Khuyên lơn Annam biểu tuyệt giao với khách đừng
mua bán, cứ mua đồ Annam. Còn nhà thẩy rang gạo nấu nước uống, không thèm mua
trà. Mỗi bửa sớm mai lên chợ giảng dụ Annam biểu lập tiệm buôn bán tranh thương
với chệc, người nào xướng ra lập tiệm chi buôn bán, tức thì thẩy cho một trăm đồng
bạc.
Hạnh Sương
nói:
-
Phải
đa! Ở đời như thầy cai đó vậy mới khỏi tiếng uổng sanh ở trong trời đất, mới là
đánh kỉnh, đáng sợ, đáng thương, đáng mến cho chớ. Má biết làm sao mà thầy cai
đó không sợ tốn hao chăng? Ấy là thẩy biết cái nghỉa vụ làm người trong nước,
thẩy thấy bọn kiều khách đã lấy của Annam ta ăn cho ngập mặt, rồi trở lại chưởi
mắng người bổn quốc ta nên xúc cái nghĩa phẩn của thẩy dầu tốn hao cho bao
nhiêu thẩy cũng vui lòng chẳng chút sợ. Con ước ao, làm sao trong lục châu hết
hảy mấy trăm mấy ngàn thầy cai đều một lòng một dạ như thầy cai nầy, thì lo chi
cuộc thương của Annam ta mà không thành tựu được…”
Hãy bỏ qua những
dễ dãi hỏi ngã của thời kỳ ấy, bỏ qua cách gọi “chệc” mà ngày nay chúng ta đả
phá… Chúng tôi muốn trích dẫn lại một cách chân thực nhất có thể. Đoạn văn ngắn
này cho chúng ta hiểu về nhiều điều của thời kỳ ấy: suy nghĩ, cách nhìn nhận,
thói quen, lối sống, ứng xử, các mối quan hệ trong gia đình hay làng xã, cách
thức xưng hô, hoàn cảnh lịch sử, phát âm, từ ngữ đặc trưng vùng miền và giai kỳ,…
và đọc kỹ, chúng ta có thấy thấm thía một điều gì đó hay chăng? Người này người
kia, khác biệt trong suy nghĩ và hành động cho dù chung một mô thức xã hội, phải
chăng thời kỳ nào cũng có?
Một câu chuyện
tiêu biểu của một thời kỳ tiêu biểu.
Đáng tiếc
thay là tác phẩm quá ngắn. Nhưng cũng là phải trong tình hình in và đọc khi ấy.
Sách mỏng, giá rẻ cho những bạn đọc mới làm quen chữ quốc ngữ là chị bán rau
tranh thủ buổi chợ, cụ xã trưởng kêu con cháu đọc nghe bên bàn thuốc phiện buổi
đêm… Phải ngắn gọn vậy thôi.
Dù sao, câu
chuyện này đủ chất liệu cho ta có thể tưởng tượng ra một trường thiên tiểu thuyết
dày dặn hơn nhiều. Gần như song song hay ngay sau những năm 1919-1920 đó, là sự
nở rộ của văn chương tiểu thuyết miền Nam với những Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu
Chánh, Phạm Minh Kiên,…
Để kết thúc,
xin được lý giải về tên sách. Tác giả đặt tên cho nhân vật là “Gian Thương”,
cũng là một điều chơi chữ đầy ngụ ý. Còn “bạc hãnh” cũng là hai từ tác giả đưa
vào bài thơ “Hựu vịnh Gian Thương, bạc hãnh” ở gần cuối sách, mà tác giả ghi thẳng
tên mình là tác giả bài thơ, như cách đưa chính mình vào làm một nhân vật trong
tác phẩm: người chứng kiến, và điều này một lần nữa củng cố nhận định đây là một
câu chuyện có thật xảy đến kề bên tác giả, để ông không thể kiềm chế thương cảm
mà vội ghi nhận lại.
Bạc hãnh,
chính là bạc bẽo và lấc xấc.
Xin được cám
ơn những người khai phá như Trần Hữu Độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét