Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019

Ta đánh các ngươi là đại nghĩa.



Ta đường đường nước lớn, ở giữa thiên hạ, ngàn năm đô hộ chúng ngươi, đuổi ta về còn chưa biết tội, mỗi khi quân thiên tử sang lại ngang ngược đánh càn, khiến bao đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh rách giáp gãy cờ còn chưa hết hận.

Ta đây Đài Loan chưa thu phục, ghế bảo an vẫn nhơ nhẩn Tưởng ngồi, Áo Môn, Hương Cảng còn là nhượng địa của người, đánh đâu thua đó từ Triều Tiên gần đến Xô, Ấn xa xôi, đã bảo các ngươi vuốt mặt nể mũi đừng vội vàng nhất thống, mà phỉ mặt thành tựu trước ta, ta có thể tha thứ hay sao?

Ta và Mỹ Quốc đi đêm, như năm năm tư ta bán đứng các ngươi giữa bàn tròn hội nghị. Ta bán rồi các ngươi tự mình chuộc lại, ta mất cả vốn lẫn lời, mất cả miếng mồi và bản mặt. Bạn của ta thì ngươi đuổi mất. Lời của ta thì ngươi xem như chó sủa mèo tru. Thù ấy có nên ghi nhớ hay không?

Ta nặn mãi mới ra thằng Khơ-me Đỏ, đỏ từ trong giỏ, đỏ hơn ta đỏ. Chúng diệt chủng còn chưa đủ số, cắn các ngươi còn chưa đủ đau. Ai cho phép các ngươi đánh chết chó nhà ta, cho dù chó của ta là chó dại?

Nước ta đất chật người đông, lâu lâu ta lén dời cột biên chút xíu, sáng ra ngươi lại trả về nguyên trạng là cái đạo lý gì?

Ta dù tàn thân tạ xác qua bao mùa nhảy vọt, cách văn hóa mạng, đấu nội đá bộ, cũng đủ triệu quân để làm bị cát hứng hỏa lực nhà ngươi, ngươi liệu đủ đạn hay chăng?

Tội tày đình như thế, ta làm sao có thể khỏi đánh ngươi???

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2019

"Bắc Kinh và Hà Nội dạy cho nhau một bài học"



Lee Lescaze là một nhà báo kỳ cựu, ông từng là phóng viên thường trú ở Sài Gòn và Hongkong. Ông mất năm 1996.

Vào ngày 18.3.1979, ngày mà Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi cuộc xâm lược Việt Nam, ông viết trên Washington Post bài báo có tựa đề " Peking And Hanoi Teach Each Other a Lesson" - Bắc Kinh và Hà Nội dạy cho nhau một bài học.

Bài báo ngắn, thể hiện một cách nhìn ngay khi cuộc chiến đang diễn ra. Xin được dịch lại nguyên văn dưới đây.

Dù rằng quân Trung Quốc đang rút khỏi Việt Nam, cuộc đối đầu giữa hai quốc gia cộng sản châu Á này vẫn là ở giai đoạn khởi đầu. Nó hứa hẹn sẽ kéo dài, cũng như sẽ căng thẳng, tương tự như sự xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô.

Nhiều yếu tố của sự chia rẽ Trung-Xô như tranh chấp biên giới,tranh giành ảnh hưởng, cảm thấy bị phản bội và không thành công trong việc xử lý mối quan hệ song phương giữa hai quốc gia có tiềm lực không cân xứng đã dẫn dắt đến việc phá hỏng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Cuộc xâm lược ngày 17 tháng 2 của Trung Quốc là trận chiến lớn đầu tiên, tuy nhiên giới ngoại giao tin là, nó đã được phát động chỉ sau khi Bắc Kinh đã tự từ bỏ mối quan hệ thân thiện với Hà Nội, và chuyển hướng hướng đến một cuộc đối đầu lâu dài.

Việt Nam cũng xác định rõ rằng cuộc chiến sẽ kéo dài và khốc liệt. Cùng với sự tuyên bố về một chiến thắng chống quân Trung Quốc, Hà Nội liên tục tuyên bố trên các phương tiện truyền thông chính thức của mình rằng "giới lãnh đạo Bắc Kinh rõ ràng vẫn chưa kịp thức tỉnh với thực tế."

Giai đoạn tiếp theo có khả năng sẽ là một cuộc tranh luận dai dẳng về biên giới Việt – Trung.

Việt Nam đồng ý đàm phán về tranh chấp biên giới, tuy nhiên chỉ sau khi Trung Quốc rút quân về phía bên kia “đường biên giới lịch sử”. Niềm hy vọng rằng cuộc đàm phán ấy có thể bắt đầu sớm dường như bị đe dọa bởi cáo buộc của Bộ Ngoại giao Hà Nội rằng: Trung Quốc trong lúc rút quân đã di dời các cột mốc biên giới. Việt Nam sẽ không mở các cuộc đàm phán chính thức cho đến khi các cột mốc này được trả về vị trí của chúng trước ngày 17 tháng 2.

Và ngay cả khi ấy, thì Trung Quốc và Việt Nam vẫn bất đồng quan điểm về một số phần lãnh thổ nhỏ. Mới đây, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm) nói với một tờ báo của Nhật Bản rằng các khu vực tranh chấp có tổng diện tích chỉ khoảng 35 dặm vuông. Trong khi phía Việt Nam công nhận các biên giới được thống nhất bởi chính quyền Đông Dương thuộc Pháp trước đây và Trung Hoa vào cuối thế kỷ 19, thì phía Trung Quốc muốn hồi tố đàm phán lại với cái cớ là đường biên giới thỏa thuận ngày trước là trong bối cảnh Trung Hoa yếu thế [nên bị ép].

Hai kẻ thương lượng cứng rắn 

Như cả thế giới đều thấy rõ, ngay cả khi chấp nhận đàm phán thì cả hai phía Trung Quốc và Việt Nam đều là những người thương lượng cứng rắn. Những đàm phán giữa hai bên về vấn đề người Hoa ở Việt Nam đã bị đổ vỡ vào năm ngoái.

Trong trao đổi với Hoa Kỳ trước kia, Việt Nam đã từng nói: "Giới lãnh đạo Trung Quốc đã tính sai nếu như  họ tin rằng những gì họ không thể đạt được trong cuộc chiến, họ có thể đạt được tại bàn đàm phán."

Việt Nam không dừng lại việc tổng động viên sau khi Trung Quốc bắt đầu rút quân, cũng không ngừng công bố những lời cáo buộc Trung Quốc đã giết hại thường dân, phá hủy các thị trấn biên giới, cướp bóc và họ khích lệ gia tăng tinh thần chống Trung Quốc.

Hà Nội cũng đã lôi kéo Lào và chính quyền mới ở  Campuchia vào một liên minh chống Trung Quốc. Sau cuộc tiến quân vào Campuchia đem đến lời cáo buộc cho Hà Nội trên toàn thế giới, Việt Nam đã lấy lại được hình ảnh cũ của mình là một quốc gia nhỏ bé đánh trả  lại một kẻ khổng lồ.

Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam cho thấy rõ họ sẵn sàng gây khó cho nhau bất cứ khi nào có cơ hội.

Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã hứa hỗ trợ quân du kích Khmer Đỏ chống lại chính phủ  mới ở Phnom Penh được Việt Nam hậu thuẫn.

Những tuyên bố của chính Đặng đã khiến ông trở thành kiến trúc sư cho cuộc xâm lược của Trung Quốc, và Việt Nam đã kêu gọi người dân Trung Quốc loại ông khỏi quyền lực.

Việc báo đại tự tại Bắc Kinh đặt ra câu hỏi về cuộc xâm lược đã được Hà Nội khai thác đào sâu như là sự chia rẽ nội bộ của Trung Quốc về cuộc xâm lăng, và sẽ ảnh hưởng đến "đời sống chính trị của những kẻ có trách nhiệm gây ra cuộc chiến".

Trung Quốc tỏ ra không kém cạnh trong việc nhất mạnh đến việc thay đổi quyền lực lãnh đạo tại Hà Nội. Tuy nhiên, sự thống nhất trong đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Việt Nam lại thật là ấn tượng so với việc Đặng hai lần bị thanh trừng tại Bắc Kinh.

Tương tự như khi mối quan hệ Xô-Trung rạn nứt, có vẻ như các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam trực tiếp can dự vào các sự kiện kiện năm trước đấy đã không thể bỏ qua cho nhau. Quyết định của Trung Quốc ngưng việc viện trợ cho Việt Nam và rút toàn bộ chuyên gia về nước vào mùa hè năm ngoái y hệt kiểu mà Liên Xô đã hành xử với chính Trung Quốc trước kia.

Cựu thủ tướng Chu Ân Lai từng than phiền khi rút đi, các cố vấn Liên Xô đã đem theo hết các thiết kế kỹ thuật, gây khó khăn cho Trung Quốc trong việc tiếp tục các dự án đang dang dở. Giới ngoại giao nhận xét rằng bản thân Trung Quốc đã quên khuấy những lời than vãn đó khi chính họ cũng lặp lại cách thức y như thế.

Việc cắt viện trợ của Trung Quốc cùng với việc giảm viện trợ nước ngoài của Thụy Điển, Đan Mạch và Australia sau cuộc tấn công Campuchia của Việt Nam đã gây nên những áp lực mới đối với nền kinh tế vốn dĩ ốm yếu của Việt Nam.

Hà Nội đã không thể hội nhập miền Nam Việt Nam kể từ năm 1975, và phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt và lạm phát nghiêm trọng trong khi phải tiếp tế cho đội quân ở Campuchia và Lào.

Mong muốn hiện đại hóa nhanh chóng của Trung Quốc cũng có thể bị thách thức nếu tiếp tục gia tăng chi phí quân sự, cho dù nguồn lực của họ to lớn hơn nhiều.

 Hiểu bài học

Giới ngoại giao cho rằng Trung Quốc không có khả năng sớm thực hiện một hành động quân sự lớn nào khác. Họ sẽ không đạt được gì cả nếu cứ lặp lại các cuộc tấn công giới hạn kiểu như vậy, và bất kỳ nỗ lực nào nhằm chiếm nhiều hơn các khu vực biên giới nhỏ bé ấy sẽ khiến Trung Quốc phải đối mặt với các cuộc phản công của Việt Nam.

Các nhà phân tích tin là mức độ xung đột trực tiếp sẽ giảm xuống cùng với việc mỗi bên đang tìm kiếm các cách thức về ngoại giao và quân sự để gây phương hại cho nhau.

Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ cho Khmer Đỏ với hy vọng sẽ làm chảy máu quân đội và nền kinh tế của Việt Nam vì chiến tranh du kích đã đạt được một số kết quả kể từ khi Phnom Penh thất thủ vào tháng Giêng. Trung Quốc cũng có khả năng lớn tuồn các loại vũ khí nhỏ hoặc quân du kích vào miền bắc Lào, và Trung Quốc lẫn Việt Nam có thể tiến hành các cuộc tấn công thăm dò quy mô nhỏ qua biên giới như họ đã thực hiện trước khi có cuộc xâm lược của Trung Quốc.

Đảng Cộng sản Thái Lan là một mục tiêu khác của cuộc đối đầu Trung Quốc - Việt Nam. Lãnh đạo của đảng này liên kết với Trung Quốc, tuy nhiên trong con số 10.000-12.000 du kích ước tính, phần lớn được người Việt Nam huấn luyện. Các căn cứ của họ đóng tại Lào và Campuchia, nơi họ sẽ tiếp xúc với người Việt Nam chứ không phải người Trung Quốc.

Cuộc đối đầu Trung-Việt kết thúc một thời kỳ của nền chính trị Đông Dương. Trung Quốc nói rằng cuộc xâm lược của họ đã được phát động để dạy cho Việt Nam một bài học.

Hà Nội đã biết bài học lớn: một lần nữa họ lại phải dấn thân vào một cuộc đấu tranh lâu dài.

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

"Mãn mục phi minh kính"


Có trên tay quyển sách Đường thi quốc âm cổ bản của NXB Tổng hợp khá lâu nhưng chưa đọc. Sách do hai tác giả Nguyễn Xuân Diện và Trần Ngọc Đông biên soạn. Tết, mở ra, lật ngay bài "Bát nguyệt thập ngũ dạ nguyệt - bài thứ nhất" của thi hào Đỗ Phủ, một bài thơ về Trung thu, và dù không thể hiểu hết ý tứ người xưa, chúng tôi vẫn cảm là tuyệt tác.

Vốn Hán văn chẳng có, đành dựa vào tra dịch. Khá mất thời gian để có thể tạm yên lòng là mình không sai quá nhiều, không đi quá xa...

Nguyên tác bài thơ như sau:

八月十五夜月其一

滿目飛明鏡,
歸心折大刀。
轉蓬行地遠,
攀桂仰天高。
水路疑霜雪,
林棲見羽毛。
此時瞻白兔,
直欲數秋毫。

Sách Đường thi quốc âm cổ bản đã phiên âm và dịch nghĩa toàn bài như sau:

Phiên âm:

Mãn mục phi minh kính,
Quy tâm chiết đại đao.
Chuyển bồng hành địa viễn,
Phan quế ngưỡng thiên cao.
Thuỷ lộ nghi sương tuyết,
Lâm thê kiến vũ mao.
Thử thì chiêm bạch thố,
Trực dục sổ thu hào.

Dịch nghĩa:

Đầy trước mắt là tấm gương sáng bay,
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Tấm thân như cỏ bồng lưu lạc, càng ngày càng xa quê
Vin cành quế mới thấy trời cao, cao mãi
Đường sông mà ngỡ là sương tuyết
Chỗ nghỉ trong rừng thấy nhiều cánh chim đậu
Lúc (bấy giờ) ngắm thỏ trắng trong cung trăng,
Chính là khi muốn đếm từng sợi lông mùa thu.

Phần dịch nghĩa này đã có một sự thay đổi - cả về ngữ nghĩa so với lần xuất bản trước đấy:

Thấy mồn một mảnh gương sáng bay (trong không trung),
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Như cỏ bồng bay về miền xa xôi.
Vin cây quế để thấy trời cao,
Đường sông tưởng sông sương sông tuyết,
Chốn rừng sâu thấy đầy như lông lá.
Lúc này ngắm thỏ trắng,
Muốn có ngay vài sợi tơ mùa thu.

Còn đây là dịch nghĩa từ trang thivien.net:

Thấy rõ tấm gương sáng bay,
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Như cỏ bồng đi nơi đất xa,
Vin cây quế để thấy trời cao.
Trên đường sông ngỡ tưởng sương với tuyết,
Ở trong rừng sâu có thể nhìn rõ từng sợi lông của chim thú.
Lúc này ngẩng nhìn thỏ trắng trên cung trăng,
Muốn đếm ngay xem có bao nhiêu sợi lông tơ mới mọc.

Nhiều đoạn dịch nghĩa quả làm người đọc hoang mang. Vì sao đường sông thành sương thành tuyết? Sương tuyết giữa Trung thu tháng tám sao? Rừng đầy lông lá là ý nghĩa gì? Sợi lông mùa thu?
Chúng tôi cố gắng tìm tòi hiểu lại ý tứ từng từ, từng câu, từng cặp câu và sự liên kết toàn bài.

Trong Đường thi quốc âm cổ bản, câu thứ nhất của bài thơ, "Mãn mục phi minh kính", đã được dịch nghĩa thành "Đầy trước mắt là tấm gương sáng bay".

Cụ Tú Xương đã dịch chuyển thoát ý câu đầu này vào bài thơ thất ngôn bát cú của cụ như sau:
"Vành vạnh tròn gương mắt trải bao".

Thơ cụ, là dịch hay là tá ý, khi đọc hết cả bài của cụ, mỗi người có thể tự rút ra kết luận. Còn riêng ở câu này, chắc chắn ta thấy cụ không có cho tấm gương ấy "bay".

Bản thân chúng tôi cũng không thấy yên tâm chút nào khi thấy trăng (hình tượng hóa bằng hình ảnh "minh kính") bay trong thơ. "Trăng bay"? Sao nghe cứ vèo vèo như đĩa bay thời hiện đại. Vậy, nếu ghép thành "phi minh kính" chưa thuyết phục lắm, thì ghép ngược lên hai chữ trước thành "mãn mục phi" ổn hơn chăng? Cũng chưa ổn.

Đọc xuống hết bảy câu còn lại của bài thơ, chúng tôi xin phép hồ đồ đưa ra nhận xét chủ quan là: Các chữ ở vị trí thứ ba của tất cả tám câu thơ đều là những động từ với chủ thể là chính tác giả: phi, chiết, hành, ngưỡng, nghi, kiến, chiêm, sổ. Tác giả khéo léo ẩn giấu mình trong từng câu thơ.

Trở lại câu thứ nhất, Đỗ Phủ đã bay lên trăng hay sao? Đúng, ông đã "bay" thông qua - bay bằng ánh mắt của chính ông, ánh mắt mãn nhãn, mãn nguyện chiêm ngưỡng ánh sáng đêm Trung thu: "Mãn mục phi minh kính" - đưa cả tầm mắt phóng lên tấm kính sáng chói trên trời cao.

Và, cứ mày mò ráp tự như thế, chúng tôi cố đưa ra một bản dịch nghĩa cho riêng mình:

Đưa cả tầm mắt phóng lên tấm kính sáng chói,
Lòng mong muốn quay về, bẻ thanh đao lớn.
Đưa bông cỏ bồng về miền xa rất xa,
Vịn vào cành quế mà ngước nhìn lên trời cao
Con đường sông kia mà cứ ngỡ là sương là tuyết,
Rừng rậm rạp kia mà vẫn nhìn rõ từng chiếc lông vũ lông mao.
Lúc này đây, ngắm nhìn thỏ trắng (thỏ trong trăng, và cũng là "thỏ là trăng"),
Bất chợt muốn đếm từng sợi lông tơ (của thỏ).

Đôi chút phân vân với chữ đầu câu ba (chuyển) và chữ đầu câu bốn (phan): Là động từ? Hay là phó từ? Cả hai dạng thức đều ổn. Hay tác giả hàm ý cả hai? Chỉ có chính tác giả mới biết rõ. Mà, từ phó từ thành động từ, ngữ nghĩa đã hoàn toàn khác đi. Trong phần dịch nghĩa ở trên, chúng tôi đã chọn dùng vai cách động từ cho hai chữ này.

Tựu trung, qua từng câu từng câu thơ, Đỗ Phủ đều lồng trong đó lời ca ngợi vẻ đẹp của ánh trăng ngày Trung thu, vẻ đẹp được ảnh chiếu, lan tỏa vào vạn vật, vào cảnh sắc... Tất cả là do ánh trăng chiếu vào: con sông lấp lánh như sương tuyết, rừng già thâm sâu đến thế mà trăng vẫn chiếu sáng thấy rõ màu lông chim lông thú... Trong khung cảnh ấy, tác giả nhìn lên trăng - trong hình tượng con Thỏ Ngọc, tưởng chừng có thể đếm rõ từng sợi lông tơ...

Tinh thần bài thơ là tinh thần thụ hưởng, hân hoan, tán dương xen chút tư tình hoài hương, hoài cái gì đó để quay về, chứ không hề là tinh thần buồn chán.

Bài thơ nguyên tác có sử dụng điển cố hay không? Đường thi quốc âm cổ bản và trang thivien.net đều cho là có đối với cùng cụm từ "chiết đại đao" ở câu thứ hai, và viện dẫn hai điển tích khác nhau. Chúng ta đều có thể tự tham khảo so sánh.

Về bản dịch thơ, chúng tôi tìm thấy một số bản như sau trên mạng:

Bản thứ nhất (Phạm Doanh, thivien.net):

Đầy mắt gương sáng bay,
Mong về dao to bể.
Đi đất xa, bồng trôi,
Coi trời thẳm, quế bẻ.
Đường sông, ngỡ tuyết sương,
Nhà rừng, thấy lông lá.
Thỏ trắng ngắm lúc này,
Lông thu những muốn có.

Bản thứ hai (Chi Nguyen, thivien.net):

Trên cao trăng sáng như gương.
Gãy dao, chưa thấy được đường về quê.
Cỏ bồng mặt đất mải mê.
Ai vin cành quế, mà chê trời già.
Đường sông, sương trắng, tuyết pha.
Lông chim, da thú, với ta đã tường.
Cung hằng thỏ trắng đáng thương.
Lông tơ mới mọc, đã vương thu hào.

Bản thứ ba ( Lạc Mỹ Xuyên Thu, bachngocsach.com):

Ngẩng thấy gương treo cách mấy đào
Lòng thương khách cũ đoạn phân đao
Tiễn cỏ bồng bay về đất hứa
Nương cành hương quế vọng trời cao
Đường về khách ngỡ sông sương tuyết
Lối dạo rừng sâu lẫn chim mào
Cung Quảng nơi nào trông thỏ trắng.
Thu về kéo sợi đến ngàn sao.

Bản thứ tư (Trần Minh Tú, trantiensinh777 blogspot):

Ánh trăng chiếu sáng khắp gương
Lòng như dao cắt nhớ thương quê nhà
Tựa cỏ, mỗi lúc thêm xa
Vin nhành hoa quế, bao la bầu trời
Đường sương trắng tựa tuyết rơi
Chim chải lông nhỏ đậu nơi rừng già
Ngửa mặt ngắm thỏ trăng xa
Thân nhàn ta đếm tóc đà bạc thêm

Bản dịch của cụ Trần Tế Xương, in trong Đường thi quốc âm cổ bản:

Vành vạnh tròn gương mắt trải bao,
Lòng quê như bẻ nửa binh đao.
Cỏ bồng trước gió đang quay sấp,
Cành quế trên mây dễ vít sao.
Sỏi trắng khách ngờ pha nước tuyết,
Rừng xanh chim đậu tỏ cây cao.
Phau phau vừng nguyệt không mây bợn,
Tấm cám từng li chút có nào.

Lỡ cố tình phiên nghĩa theo ý tứ chủ quan, chúng tôi cũng đành mạo muội luôn mà có một bản dịch như sau:

Phóng mắt vào gương sáng
Lòng quê rũ ngọn đao
Tán cỏ bay miền lạ
Tì cành ngắm trời cao
Nước dòng ngời như tuyết
Cảnh rừng ánh tợ sao
Say hồn nhìn Thỏ Ngọc
Sực thèm đếm sợi mao.

Trà Điêu