Có trên tay quyển sách Đường thi quốc âm cổ bản của NXB Tổng hợp khá lâu nhưng chưa đọc. Sách do hai tác giả Nguyễn Xuân Diện và Trần Ngọc Đông biên soạn. Tết, mở ra, lật ngay bài "Bát nguyệt thập ngũ dạ nguyệt - bài thứ nhất" của thi hào Đỗ Phủ, một bài thơ về Trung thu, và dù không thể hiểu hết ý tứ người xưa, chúng tôi vẫn cảm là tuyệt tác.
Vốn Hán văn chẳng có, đành dựa vào tra dịch. Khá mất thời gian để có thể tạm yên lòng là mình không sai quá nhiều, không đi quá xa...
Nguyên tác bài thơ như sau:
八月十五夜月其一
滿目飛明鏡,
歸心折大刀。
轉蓬行地遠,
攀桂仰天高。
水路疑霜雪,
林棲見羽毛。
此時瞻白兔,
直欲數秋毫。
Sách Đường thi quốc âm cổ bản đã phiên âm và dịch nghĩa toàn bài như sau:
Phiên âm:
Mãn mục phi minh kính,
Quy tâm chiết đại đao.
Chuyển bồng hành địa viễn,
Phan quế ngưỡng thiên cao.
Thuỷ lộ nghi sương tuyết,
Lâm thê kiến vũ mao.
Thử thì chiêm bạch thố,
Trực dục sổ thu hào.
Dịch nghĩa:
Đầy trước mắt là tấm gương sáng bay,
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Tấm thân như cỏ bồng lưu lạc, càng ngày càng xa quê
Vin cành quế mới thấy trời cao, cao mãi
Đường sông mà ngỡ là sương tuyết
Chỗ nghỉ trong rừng thấy nhiều cánh chim đậu
Lúc (bấy giờ) ngắm thỏ trắng trong cung trăng,
Chính là khi muốn đếm từng sợi lông mùa thu.
Phần dịch nghĩa này đã có một sự thay đổi - cả về ngữ nghĩa so với lần xuất bản trước đấy:
Thấy mồn một mảnh gương sáng bay (trong không trung),
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Như cỏ bồng bay về miền xa xôi.
Vin cây quế để thấy trời cao,
Đường sông tưởng sông sương sông tuyết,
Chốn rừng sâu thấy đầy như lông lá.
Lúc này ngắm thỏ trắng,
Muốn có ngay vài sợi tơ mùa thu.
Còn đây là dịch nghĩa từ trang thivien.net:
Thấy rõ tấm gương sáng bay,
Lòng mong về quê cũ khiến gãy con dao lớn.
Như cỏ bồng đi nơi đất xa,
Vin cây quế để thấy trời cao.
Trên đường sông ngỡ tưởng sương với tuyết,
Ở trong rừng sâu có thể nhìn rõ từng sợi lông của chim thú.
Lúc này ngẩng nhìn thỏ trắng trên cung trăng,
Muốn đếm ngay xem có bao nhiêu sợi lông tơ mới mọc.
Nhiều đoạn dịch nghĩa quả làm người đọc hoang mang. Vì sao đường sông thành sương thành tuyết? Sương tuyết giữa Trung thu tháng tám sao? Rừng đầy lông lá là ý nghĩa gì? Sợi lông mùa thu?
Chúng tôi cố gắng tìm tòi hiểu lại ý tứ từng từ, từng câu, từng cặp câu và sự liên kết toàn bài.
Trong Đường thi quốc âm cổ bản, câu thứ nhất của bài thơ, "Mãn mục phi minh kính", đã được dịch nghĩa thành "Đầy trước mắt là tấm gương sáng bay".
Cụ Tú Xương đã dịch chuyển thoát ý câu đầu này vào bài thơ thất ngôn bát cú của cụ như sau:
"Vành vạnh tròn gương mắt trải bao".
Thơ cụ, là dịch hay là tá ý, khi đọc hết cả bài của cụ, mỗi người có thể tự rút ra kết luận. Còn riêng ở câu này, chắc chắn ta thấy cụ không có cho tấm gương ấy "bay".
Bản thân chúng tôi cũng không thấy yên tâm chút nào khi thấy trăng (hình tượng hóa bằng hình ảnh "minh kính") bay trong thơ. "Trăng bay"? Sao nghe cứ vèo vèo như đĩa bay thời hiện đại. Vậy, nếu ghép thành "phi minh kính" chưa thuyết phục lắm, thì ghép ngược lên hai chữ trước thành "mãn mục phi" ổn hơn chăng? Cũng chưa ổn.
Đọc xuống hết bảy câu còn lại của bài thơ, chúng tôi xin phép hồ đồ đưa ra nhận xét chủ quan là: Các chữ ở vị trí thứ ba của tất cả tám câu thơ đều là những động từ với chủ thể là chính tác giả: phi, chiết, hành, ngưỡng, nghi, kiến, chiêm, sổ. Tác giả khéo léo ẩn giấu mình trong từng câu thơ.
Trở lại câu thứ nhất, Đỗ Phủ đã bay lên trăng hay sao? Đúng, ông đã "bay" thông qua - bay bằng ánh mắt của chính ông, ánh mắt mãn nhãn, mãn nguyện chiêm ngưỡng ánh sáng đêm Trung thu: "Mãn mục phi minh kính" - đưa cả tầm mắt phóng lên tấm kính sáng chói trên trời cao.
Và, cứ mày mò ráp tự như thế, chúng tôi cố đưa ra một bản dịch nghĩa cho riêng mình:
Đưa cả tầm mắt phóng lên tấm kính sáng chói,
Lòng mong muốn quay về, bẻ thanh đao lớn.
Đưa bông cỏ bồng về miền xa rất xa,
Vịn vào cành quế mà ngước nhìn lên trời cao
Con đường sông kia mà cứ ngỡ là sương là tuyết,
Rừng rậm rạp kia mà vẫn nhìn rõ từng chiếc lông vũ lông mao.
Lúc này đây, ngắm nhìn thỏ trắng (thỏ trong trăng, và cũng là "thỏ là trăng"),
Bất chợt muốn đếm từng sợi lông tơ (của thỏ).
Đôi chút phân vân với chữ đầu câu ba (chuyển) và chữ đầu câu bốn (phan): Là động từ? Hay là phó từ? Cả hai dạng thức đều ổn. Hay tác giả hàm ý cả hai? Chỉ có chính tác giả mới biết rõ. Mà, từ phó từ thành động từ, ngữ nghĩa đã hoàn toàn khác đi. Trong phần dịch nghĩa ở trên, chúng tôi đã chọn dùng vai cách động từ cho hai chữ này.
Tựu trung, qua từng câu từng câu thơ, Đỗ Phủ đều lồng trong đó lời ca ngợi vẻ đẹp của ánh trăng ngày Trung thu, vẻ đẹp được ảnh chiếu, lan tỏa vào vạn vật, vào cảnh sắc... Tất cả là do ánh trăng chiếu vào: con sông lấp lánh như sương tuyết, rừng già thâm sâu đến thế mà trăng vẫn chiếu sáng thấy rõ màu lông chim lông thú... Trong khung cảnh ấy, tác giả nhìn lên trăng - trong hình tượng con Thỏ Ngọc, tưởng chừng có thể đếm rõ từng sợi lông tơ...
Tinh thần bài thơ là tinh thần thụ hưởng, hân hoan, tán dương xen chút tư tình hoài hương, hoài cái gì đó để quay về, chứ không hề là tinh thần buồn chán.
Bài thơ nguyên tác có sử dụng điển cố hay không? Đường thi quốc âm cổ bản và trang thivien.net đều cho là có đối với cùng cụm từ "chiết đại đao" ở câu thứ hai, và viện dẫn hai điển tích khác nhau. Chúng ta đều có thể tự tham khảo so sánh.
Về bản dịch thơ, chúng tôi tìm thấy một số bản như sau trên mạng:
Bản thứ nhất (Phạm Doanh, thivien.net):
Đầy mắt gương sáng bay,
Mong về dao to bể.
Đi đất xa, bồng trôi,
Coi trời thẳm, quế bẻ.
Đường sông, ngỡ tuyết sương,
Nhà rừng, thấy lông lá.
Thỏ trắng ngắm lúc này,
Lông thu những muốn có.
Bản thứ hai (Chi Nguyen, thivien.net):
Trên cao trăng sáng như gương.
Gãy dao, chưa thấy được đường về quê.
Cỏ bồng mặt đất mải mê.
Ai vin cành quế, mà chê trời già.
Đường sông, sương trắng, tuyết pha.
Lông chim, da thú, với ta đã tường.
Cung hằng thỏ trắng đáng thương.
Lông tơ mới mọc, đã vương thu hào.
Bản thứ ba ( Lạc Mỹ Xuyên Thu, bachngocsach.com):
Ngẩng thấy gương treo cách mấy đào
Lòng thương khách cũ đoạn phân đao
Tiễn cỏ bồng bay về đất hứa
Nương cành hương quế vọng trời cao
Đường về khách ngỡ sông sương tuyết
Lối dạo rừng sâu lẫn chim mào
Cung Quảng nơi nào trông thỏ trắng.
Thu về kéo sợi đến ngàn sao.
Bản thứ tư (Trần Minh Tú, trantiensinh777 blogspot):
Ánh trăng chiếu sáng khắp gương
Lòng như dao cắt nhớ thương quê nhà
Tựa cỏ, mỗi lúc thêm xa
Vin nhành hoa quế, bao la bầu trời
Đường sương trắng tựa tuyết rơi
Chim chải lông nhỏ đậu nơi rừng già
Ngửa mặt ngắm thỏ trăng xa
Thân nhàn ta đếm tóc đà bạc thêm
Bản dịch của cụ Trần Tế Xương, in trong Đường thi quốc âm cổ bản:
Vành vạnh tròn gương mắt trải bao,
Lòng quê như bẻ nửa binh đao.
Cỏ bồng trước gió đang quay sấp,
Cành quế trên mây dễ vít sao.
Sỏi trắng khách ngờ pha nước tuyết,
Rừng xanh chim đậu tỏ cây cao.
Phau phau vừng nguyệt không mây bợn,
Tấm cám từng li chút có nào.
Lỡ cố tình phiên nghĩa theo ý tứ chủ quan, chúng tôi cũng đành mạo muội luôn mà có một bản dịch như sau:
Phóng mắt vào gương sáng
Lòng quê rũ ngọn đao
Tán cỏ bay miền lạ
Tì cành ngắm trời cao
Nước dòng ngời như tuyết
Cảnh rừng ánh tợ sao
Say hồn nhìn Thỏ Ngọc
Sực thèm đếm sợi mao.
Trà Điêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét