Từ 2009 đến 2011 Kaplan tham gia vào Hội đồng Chính sách Quốc phòng của Lầu Năm góc, được chỉ định bởi Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates. Từ 2008 ông là nghiên cứu sinh cao cấp tại Trung tâm An ninh Tân Hoa Kỳ tại Washington. Từ 2006 đến 2008 ông là Giáo sư thỉnh giảng đặc biệt Thế hệ 1960 của Học viện Hàng hải Hoa Kỳ tại Annapolis.
Quyển sách Chảo dầu tại Châu Á – Biển Đông và sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định
(Asia’s Caudron – The South China Sea and
the End of a Stable Pacific) của ông xuất bản đầu năm 2014. Sách gồm 8 chương, trong đó tác giả dành riêng Chương III để đề cập đến Việt Nam, mối quan hệ lịch sử với Trung Quốc và những nhìn nhận của người Việt Nam về mối quan hệ đó, về mối đe dọa của một Trung Hoa đang tìm cách khuynh loát cán cân quyền lực trong khu vực và đặc biệt về quan điểm bảo vệ chủ quyền Biển Đông, bảo vệ nền tự chủ quốc gia của Việt Nam.
Xin
được giới thiệu phần dịch của Trà Điêu.
Người dịch: Trà Điêu.
Người dịch: Trà Điêu.
Chương III
Định mệnh của Việt Nam
Ảnh hưởng của Hà Nội
là đáng để
suy nghĩ: những gì thủ đô của Việt
Nam đạt
được
tại
thời
điểm,
tự
thân nó là tiến trình của lịch sử.
Tôi không hàm ý là lịch sử đơn thuần
đã là một
định
mệnh
nào đó, đã được xác định trước do vị
trí địa
lý, hình thành nên các triều đại và các cuộc
nổi
dậy
kế
tiếp
nhau, tuy nhiên lịch sử là tổng hòa của
các hành động
dũng cảm
đơn
lẻ
và những
toan tính không ngừng nghỉ. Những bản
đồ,
đồ
họa
và một
số
lớn
bia đá tại
Bảo
tàng Lịch
sử
đã dành để
kỷ
niệm
cho những
cuộc
kháng chiến
gian nan của
Việt
Nam chống
lại
các triều
đại
Tống,
Minh và Thanh của Trung Hoa vào các thế kỷ XI, XV và
XVIII: cho dù Việt Nam đã từng bị sát nhập
vào Trung Hoa cho đến thế kỷ X, đặc
tính chia tách về mặt chính trị
với
đế
chế
Trung Hoa (Middle Kingdom) từ lâu đã là một
điều
kỳ diệu
mà không lý luận nào trong quá khứ có thể biện
giải
đầy
đủ.
Một số nhiều hơn
các bia dựng
từ
hậu
bán thế
kỷ
XV ở
Văn miếu,
đã sâu sắc
ghi giữ
lại
tên tuổi
và đóng góp của tám mươi hai học giả
tiền
nhân, vượt
lên trên sự
lãng quên. Trên thực tế, đó là một
ấn
tượng
đặc
biệt
về
hình dung lịch sử của Việt
Nam. Sự
thâm trầm
và náo nhiệt
của
Đền
Ngọc
Sơn
(xây dựng
để
ghi nhớ
chiến
thắng
trước
nhà Nguyên Trung Hoa vào thế kỷ XIII), với
bức
tượng
Phật
uy nghi sơn
son thếp
vàng mờ
trong khói trầm, bao quanh bởi một hồ
nước
mờ
sương
và rậm
lá, là sự
dọn
chỗ
về
mặt
tâm linh
cho một
ngôi lăng Hồ Chí Minh chân phương hơn. Hồ, một trong những
nhân vật
nhược
tiểu
vĩ đại
của
thế
kỷ
XX, và là một trong những nhà thực
dụng
vĩ đại
nhất
lịch
sử,
đã hợp
nhất
chủ
nghĩa Mác, tư tưởng Khổng giáo và
tinh thần
quốc
gia vào chung thành một thứ vũ khí chống
lại
người
Trung Quốc,
người
Pháp và người
Mỹ;
là nền
tảng
thành công trong các cuộc kháng chiến của Việt
Nam chống
lại
ba đế
quốc
mang tầm
vóc toàn cầu.
Tượng
mạ
vàng như
Phật
của
ông được
đặt
khắp
các phòng hội nghị tại thủ đô này. Lăng của ông ta nhô cao giữa những ngôi nhà và nhà thờ kiểu
Âu châu đã xưa hàng thế kỷ, nơi từng là đầu não chính trị của Đông Dương thuộc
Pháp, một xứ phụ thuộc không chắc chắn mà Paris đã cố sức và quyết liệt nắm lại
sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, dẫn đến cuộc chiến tranh chống lại người Việt
mà đỉnh điểm của nó là một sự kiện quá bẽ bàng cho người Pháp: Trận Điện Biên
Phủ năm 1954.
Đông Dương thuộc Pháp bao gồm cà Lào và Campuchia, nhưng với
chỉ Hà Nội là đầu não chính trị và Sài Gòn là thủ phủ thương mại. Việt Nam đã
thống trị Đông Dương, nói cách khác, điều đó đã dẫn đến chỗ các lực lượng Thái
và Khơ me đôi khi có các mối liên kết ít ỏi với Trung Hoa để chống lại sức mạnh
của Việt Nam. Trên thực tế, khi mà Hoa Kỳ bảo hộ cho một Nam Việt Nam độc lập
chống lại Phía Bắc cộng sản, thì sự thống nhất của Việt Nam dưới chế độ cộng sản
và thất bại của người Mỹ đã minh họa cho một mối đe dọa lớn hơn rất nhiều cho
Trung Hoa hơn là cho Hoa Kỳ. Đó là một dấu ấn cho động lực Việt Nam trong khu vực.
Bên dưới những công trình kiến trúc kiểu Pháp là cuộc đấu
tranh mới nhất mang tính sử thi chống lại định mệnh của lịch sử: những khu phố
thương mại Hà Nội ồn ào náo nhiệt, với hàng đoàn xe máy - người lái ô tô ngồi
nhắn tin điện thoại di động khi tắc đường – những mặt tiền mới đầy vẻ hiện đại
chen lấn với những gian hàng cũ kỹ ngay kế bên. Đó là cái không gian mua bán tiền
tư bản, với hàng cà phê khắp nơi – mỗi hàng là một kiểu cách và bài trí riêng
biệt – cung cấp những món cà phê thuộc hàng ngon nhất thế giới, và vẫn chưa có
Starbucks hiện diện ở đây. Hà Nội, với bề dày lịch sử của nó, lại không có những
bảo tàng ngoài trời như những thành phố lớn tại Châu Âu. Nó vẫn còn trong một
tiến trình vụng về để trở thành, và vẫn
gần gũi với sự hỗn loạn rối rắm của Ấn Độ hơn là sự cằn cỗi khó gần của
Singapore. Người Việt Nam đang dò dẫm tìm hướng đi vào thế giới hiện đại, vì lợi
ích đầy hứa hẹn của bản thân họ và gia đình, nhưng cũng phải làm sao để bảo
toàn sự độc lập của mình trước một Trung Hoa cũng có động lực ngang bằng.
Hà Nội, như từ thời cổ xưa, là một thành phố đầu não của những
tính toán chính trị: sự nổi lên thời gian gần đây của thành phần trung lưu đầy
tiềm năng – nước đông dân thứ mười ba thế giới – với một bờ biển dài ngay tại
ngã tư đường của nhiều tuyến hàng hài quan trọng và gần với những nguồn năng lượng
dự trữ ngoài khơi. Việt Nam là “vai diễn chính” của Đông Nam Á trong cuộc tranh
chấp tại Biển Đông, đã tuyên bố chủ quyền của mình đối với cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, “trên cơ sở cứ liệu lịch sử có ít nhất là từ thế kỷ
XVII”, theo các nhà nghiên cứu Clive Scholfield và Ian Storey. “Nếu Trung Quốc cản trở được Việt Nam, họ
sẽ chiếm được Biển Đông,” một quan chức cấp cao chính phủ Hoa Kỳ nói với tôi
như vậy. “Malaysia đã buông tay, Brunei đã giải quyết những vấn đề của họ với
Trung Quốc, Indonesia không xác định rõ ràng lập trường của mình trong vấn đề
này, Philippines không có nhiều lá bài để đi ngoại trừ những phản ứng quyết liệt
và tuyên bố kích động, Singapore có khả năng nhưng quy mô lại nhỏ bé”.
Tất cả đổ dồn lên Việt Nam, nói một cách khác.
Bước đi của Việt Nam tại thời khắc này đang là những bước đi
chậm. Ngô Quang Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, đã nói với tôi
trong một cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần lễ, rằng, năm tháng mang tính then
chốt đối với nước Việt Nam mới không phải là năm 1975, khi Nam Việt Nam bị Miền
Bắc cộng sản thôn tính; mà là năm 1995; khi quan hệ được bình thường hóa với
Hoa Kỳ và cũng là khi Việt Nam gia nhập ASEAN, và bước vào một thỏa ước “khung”
với Liên minh Châu Âu. “Chúng tôi hội nhập với thế giới, nói một cách khác.”
Ông thừa nhận rằng trước khi đi đến những quyết định đó, “chúng tôi đã có những
cuộc tranh luận quyết liệt trong nội bộ.” Sự thật là, cho dù liên tiếp chiến thắng
trước người Pháp và người Mỹ, những người cộng sản Việt Nam, như những viên chức
của họ giải thích với tôi trong một loạt những cuộc trao đổi kéo dài nhiều tuần,
thì sau đó họ vẫn tiếp tục cảm thấy thua kém.
Hãy ghi nhận: Việt Nam đã tiến chiếm Cambodia vào năm 1978,
giải phóng đất nước này thoát khỏi cơn điên diệt chủng dưới chế độ Khơ-me Đỏ của
Pol Pot. Cho dù cuộc tiến chiếm là một hành động mang tính hiện thực chủ nghĩa
thật lạnh lùng - do Khơ-me Đỏ thân Trung Quốc đã đại diện cho sự de dọa mang
tính chiến lược đối với Việt Nam – thì những hệ quả của nó lại mang tính nhân bản
tích cực rộng lớn và sâu sắc. Tuy nhiên, chính vì hành động mấu chốt mang tính
nhân từ đó mà Việt Nam thân Liên Xô đã bị cấm vận bởi một liên minh thân Trung
Quốc bao gồm cả Hoa Kỳ, mà kể từ chuyến đi của Tổng thống Nixon năm 1972 đến
Trung Quốc, đã ngả về hướng Bắc Kinh. Năm 1979, Trung Quốc chính họ cũng đã xâm
lấn Việt Nam, nhằm giữ chân không cho Việt Nam tiến quân vượt qua Cambodia vào
Thái Lan. Trong khi đó, Liên bang Xô viết đã không bước đến trợ giúp cho đất nước
nằm trong tầm ảnh hưởng của mình ở Hà Nội. Việt Nam đã trơ trọi về mặt ngoại
giao, sa vào một vũng lầy tiêu hao sinh lực tại Cambodia, oằn lưng bởi sự đói
nghèo cùng cực, chủ yếu do chính sách quân sự hóa. Thăm Hà Nội vào những năm
1970, Thủ tướng Singapore khi đó là Lý Quang Diệu đã viết, ông phát hiện ra rằng
các nhà lãnh đạo Việt Nam là “không thể chịu đựng được”, hãnh diện tự cho họ
như là “những người Phổ” ở vùng Đông Nam châu Á. Nhưng sự tự cao, như những nhà
lãnh đạo Việt Nam nói với tôi, đã kéo dài không lâu. Qua những lần thiếu thực
phẩm nghiêm trọng và sự sụp đổ của Đế chế Xô viết những năm 1989-1991, Việt Nam
cuối cùng đã rút quân khỏi Cambodia. Việt Nam đã trở nên không còn bạn bè – chiến
thắng người Mỹ đã thành một ký vãng xa xôi. “Cảm giác chiến thắng trong cuộc
chiến đó luôn bị lắng xuống vì đã không bao giờ có được sự yên bình,” một nhà
ngoại giao Việt Nam giải thích.
“Người Việt Nam không quên về cuộc chiến với Hoa Kỳ những
năm 1960-1970,” một nhà ngoại giao Phương Tây nói với tôi. “Huống hồ là, một
vài thế hệ người Mỹ vẫn còn nằm trong vũng lầy của thời gian.” Người Việt Nam
không quên rằng hai mươi phần trăm đất nước họ không thể ở được hoặc do bom mìn
Mỹ còn chưa được rà phá hết; hoặc vì tác động của chất độc màu da cam, không thứ
gì có thể sinh sôi được trên phần đất đai đáng kể đó. Có đến ba phần tư người
Việt Nam ra đời sau “Kháng chiến chống Mỹ”, như họ gọi – để phân biệt với những
cuộc đấu tranh mà họ tiến hành trước và sau đó. Và thậm chí một tỷ lệ người còn
nhiều hơn không có bất cứ ký ức gì về cuộc chiến đó.
Các sinh viên và viên chức trẻ tuổi tôi gặp tại Học viện Ngoại
giao, một nhánh trực thuộc của Bộ Ngoại giao, còn thoát ra được khỏi cuộc Kháng
chiến chống Mỹ hơn là những đứa trẻ của giai đoạn bùng nổ sinh đẻ sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai. Tại một hội trường địa phương – nơi thường diễn ra những
cuộc gặp gỡ mà họ dành cho tôi, trên thực tế, họ đã phê phán Hoa Kỳ nhung không
có gì liên quan đến chiến tranh. Họ đã bực bội trước việc Hoa Kỳ không hề can
thiệp với Trung Quốc vào năm 1990 khi Bắc Kinh đe dọa chủ quyền của Philippines
đối với Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa tại Biển Đông; và với việc Hoa Kỳ
không gắn kết về mặt kinh tế và ngoại giao với Myanmar nhiều hơn trước năm
2011, để có thể ngăn chặn đất nước này trở thành vệ tinh của Bắc Kinh. Một sinh
viên tổng kết: “Sức mạnh của Hoa Kỳ là cần thiết cho nền an ninh của thế giới.”
Thật vậy, các sinh viên và viên chức kế tiếp nhau sử dụng thuật ngữ “cân bằng sức
mạnh [với Trung Quốc]” để miêu tả Hoa Kỳ. “Người Trung Hoa quá mạnh, quá tham vọng,”
một nhà nghiên cứu nữ nói, “đó là lý do tại sao Thời Đại Trung Hoa là mối đe dọa
to lớn đối với chúng ta.”
Cả Việt Nam và Hoa Kỳ “chia sẻ lợi ích trong việc ngăn ngừa
Trung Quốc… có thể thống trị xương sống thương mại hàng hải và gia tăng những
đòi hỏi lãnh thổ thông qua con đường cưỡng chiếm,” Giáo sư Carlyle A. Thayer của
Học viện Quốc phòng Australia tại Canberra đã nói như vậy. “Việt Nam xem sự hiện
diện của Hoa Kỳ như là một rào cản ngăn chặn việc gia tăng sức mạnh quân sự của
Trung Quốc.”
David Lamb, người đã từng theo dõi cuộc chiến những năm 1960
cũng như đã trở lại đây vào những năm 1990 với tư cách phóng viên của Thời báo
Los Angeles tại Hà Nội, nói rằng, đơn giản là “Người Việt Nam thích người Mỹ… Họ đã mất ba triệu người
[một trong số mười người bị chết hoặc bị thương], đã bị dội lên người 15 triệu
tấn đạn dược – gấp hai lần số dội xuống cả Châu Âu và Châu Á trong Chiến tranh
Thế giới thứ hai, và đã phải sống qua một cuộc chiến tranh khiến cho 7 triệu
ngưởi Nam Việt Nam phải di tản và tàn phá toàn bộ công nghiệp và hạ tầng của Miền
Bắc Việt Nam. Vâng,” ông viết tiếp, “họ đã bỏ lại cuộc chiến sau lưng họ theo
cái cách mà nhiều người Mỹ đã không thể làm. Bệnh viện của họ đầy những cựu chiến
binh với những cơn ác mộng hậu chiến, nhưng họ không có được một tượng đài kỷ
niệm quốc gia như kiểu Bức tường Việt Nam tại Washington. Họ không viết sách về
chiến tranh. Cựu chiến binh không ngồi quanh vại bia để nói về điều dó. Học
sinh học về điều đó chỉ như là vài trang ngắn gọn trong suốt quá trình lịch sử
2500 năm của đất nước họ.
Trên thực tế, do cái cung cách nhạo báng và làm trầm trọng
hóa vấn đề mà một vài người Âu châu và các thành viên phe hữu của Hoa Kỳ thể hiện
khi đánh giá hàng năm, nước Mỹ đã hoàn toàn vắng bóng tại Việt Nam. Tóm lược quan điểm chung ở đây, Nguyễn
Đức Hùng, cựu Đại sứ tại Canada, đã nói với tôi: “cũng như Việt Nam đã mở rộng
về phương nam hàng thế kỷ để xác định mình như là một quốc gia, người Mỹ cũng
tiến về hướng tây – và điều đó không phải vì vàng ở California, mà vì sự tự
do.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét