Tuy nhiên, trong khi mà Hoa Kỳ chỉ là một cấu thành bên lề của quá khứ Việt Nam, Trung Hoa lại là một thành tố cốt tử. Thuật ngữ đặc biệt Đông Dương [Indochina- người dịch lặp lại nguyên văn cho phù hợp logic phân tích của tác giả] đã phản ánh chính xác phạm vi mà ảnh hưởng của Ấn Độ đã hiện hữu suốt phần còn lại của Đông Nam Á, trong khi mà ảnh hưởng của Trung Hoa tập trung chủ yếu vào phần lớn của phía bắc Việt Nam. Có thể nói là sự “hỗn loạn kéo dài” của thời kỳ cuối Nhà Đường và thời kỳ chuyển tiếp mang tính bán hỗn độn tiếp theo sau của giai đoạn Ngũ Đại Thập Quốc vào thế kỷ X tại Trung Hoa đã tạo thời cơ cho nền độc lập của Việt Nam thành hình. “Lịch sử chính thống Việt Nam đã nhấn mạnh rất nhiều đến các cuộc phản kháng, chủ yếu là chống lại Trung Hoa.” Robert Templer đã viết như thế trong một quyển sách khảo cứu của ông về Việt Nam hiện đại: Bóng tối và cơn gió: một cái nhìn về nước Việt Nam mới. “Nỗi lo sợ bị đô hộ là bất biến và vượt qua mọi khác biệt về hệ tư tưởng, nó đã tạo ra cảm giác mỏng manh của sự lo âu và tinh thần phản kháng vì một cội gốc Việt.” Nỗi lo sợ của Việt Nam là một tất yếu sâu sắc vì Viêt Nam không thể chạy trốn thoát khỏi sự vây tỏa của người láng giềng khổng lồ phương bắc, có dân số đông gấp mười lăm lần Việt Nam. Người Việt Nam hiểu rằng vị trí địa lý đã chỉ định cho cách thức quan hệ với Trung Hoa: họ có thể chiến thắng trên chiến trường, nhưng sau đó vẫn phải cử người đến Bắc Kinh thể hiện sự thần phục. Đó là tình huống lạ lùng đối với một quốc gia trên thực tế là một hòn đảo như nước Mỹ.
Một nhà ngoại giao Việt Nam khác gỉải thích: “Trung Hoa xâm
lấn Việt Nam mười bảy lần. Nước Mỹ xâm lấn Mexico chỉ có một lần, và hãy nhìn
xem người Mexico nhạy cảm ra sao về điều đó. Chúng tôi lớn lên giữa những trang
sách giáo khoa đầy ắp hình ảnh các anh hùng dân tộc chống lại ách đô hộ của
Trung Hoa.” Hoặc như một chuyên gia Phương Tây về Việt Nam nhận xét: “hãy nghĩ
xem người Canada ác cảm với Mỹ như thế nào, và rồi hãy tưởng tượng giả thử Hoa
Kỳ đem quân vào Canada.”
Sự thù địch mang tính lịch sử của người Việt Nam đối với Trung
Quốc, phần nào là do con người tạo ra, thời gian gần đây người Việt Nam thường
nhấn mạnh đến những cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của Trung Hoa trong thời kỳ
cổ đại và cận đại, trong khi hạ thấp đi vai trò của nhiều thế kỷ “mô phỏng sát
sao” Trung Hoa và những mối quan hệ tốt đẹp với nó, để phục vụ yêu cầu về một
nguồn gốc quốc gia vững chắc. Tuy nhiên, ít có sự phủ nhận đối với việc Việt
Nam hướng sự quan ngại của họ đến nước láng giềng phía bắc.
Nguồn gốc của Việt Nam thật là đặc thù vì nó đã hình thành
“trên cơ sở và đối lập với” ảnh hưởng của Trung Hoa, theo như một bản tin của
BBC. Việt Nam đã bắt đầu như là một tiền đồn phương nam của nền văn hóa Hoa
hóa. Nó đã bị sát nhập bằng vũ lực vào Đế chế Hán của Trung Hoa vào năm 111 trước
CN. Từ đó về sau nó đã bị chiếm
đóng bởi Trung Hoa hoặc bị buộc phải giữ vai phụ thuộc trong suốt gần một thiên
niên kỷ, cho đến khi, như tôi đã đề cập, cuối cùng đã tự mình thoát ra khỏi ách
đô hộ đó vào buổi hoàng hôn của Nhà Đường năm 939 sau CN. Từ đó trở về sau, các
triều đại Việt Nam như Lý, Trần và Lê đã xác định vị thế to lớn của mình qua
các cuộc kháng chiến loại bỏ sự kiểm soát của Trung Hoa ở phía bắc, đẩy lùi được
những làn sóng xâm lăng của một đội quân to lớn hơn nhiều, như Neil L. Jamieson
– cựu học giả của George Mason University đã viết trong Hiểu về Việt Nam. Không phải khi nào Việt Nam cũng thành công: đã
có một thời kỳ Nhà Minh chiếm đóng từ 1407 đến 1427, điều đó minh chứng cho việc
người Trung Hoa từ cuối thời kỳ Trung đại đã chưa bao giờ từ bỏ ý định xâm phạm
nền độc lập của Việt Nam. Sự giải thích cho việc Nhà Thanh chấp nhận cho một Việt
Nam độc lập vào thế kỷ XIX là ở chỗ do nước Pháp-“kẻ vẽ bản đồ” cứ khăng khăng
vẽ phần lãnh thổ Đông Dương của mình vào phần này của Trung Hoa.
“Sự đóng góp mang tính Hoa hóa bao hàm tất cà mọi mặt của
văn hóa, xã hội, và chính quyền, tử đôi đũa người nông dân cầm trên tay cho đến
chiếc bút người học giả và viên chức sử dụng,” nhà nghiên cứu Keith Weller
Taylor đến từ Cornell University đã viết như thế trong Sự ra đời của Việt Nam. Họ của người Việt Nam cũng như văn phạm và
ngữ pháp, phong cách nghệ thuật và văn chương, đã phản chiếu sự ảnh hưởng sâu sắc
của Trung Hoa. Thậm chí, văn học Việt Nam đã “thụ thai” với di sản Khổng giáo của
Trung Hoa. Tiếng Hoa đã từng được sử dụng như ngôn ngữ của giới học giả như là
chữ La tinh đã từng được sử dụng ở Châu Âu: và, cho dù gắn chặt với tiếng Hoa,
tiếng Việt lại có ngồn gốc Môn – Khơ me và Thái. Trong suốt quá trình đó, văn
hóa bình dânViệt Nam vẫn giữ được nét riêng biệt bên cạnh sự bành trướng của
văn hóa xây nên bởi giới ưu tú của Việt Nam. Trong giới ưu tú, theo như lời
chuyên gia Đông Nam Á Victor Lieberman của Michgan University, các quy tắc hành
chính Trung Hoa đã được “tiếp thu tới mức nguồn gốc ngoại lai của nó là không
thể chấp nhận.” Điều thúc đẩy cho mong muốn to lớn của Việt Nam tách khỏi Trung
Hoa chính là sự tiếp xúc của họ với người Chăm và người Khơ me ở phương nam, những
người mà bản thân họ chịu sự ảnh hưởng của các nền văn minh phi Hoa, đặc biệt
là của Ấn Độ. Chính vì sự tương đồng quá to lớn với người Trung Hoa, người Việt
Nam – như tôi đã đề cập - đã rất tự hào về những dị biệt nhỏ, và điều đó thậm
chí đã có từ trong quá khứ và mãi tiếp thêm sức sống cho họ.
Chiến thắng quân sự ở phía bắc trước Trung Hoa, như chiến thắng
của Hoàng đế Lê Lợi gần Hà Nội năm 1426, và ở phía nam chống lại người Chăm và
người Khơ me vào những năm 1471 và 1778, tất cả những cái đó đã tạo nên một nguồn
gốc quốc gia thật riêng biệt, được tô đậm thêm trong bối cảnh mà cho đến thời kỳ
hiện đại, Trung Hoa hiếm khi để yên cho Việt Nam. Vào năm 1946, người Trung Hoa
thông đồng với người Pháp để tiến quân chiếm đóng bắc Việt Nam để rồi sau đó được
thay thế bởi quân Pháp. Năm 1979, như chúng ta đã biết, bốn năm sau khi Hoa Kỳ
từ bỏ Việt Nam, 100 000 quân Trung Quốc đã tiến công xâm lược. Lãnh đạo Trung
Quốc Đặng Tiểu Bình “chưa bao giờ đánh mất sự căm thù tận xương tủy đối với người
Việt Nam,” Robert Templer viết, và do đó đã âm mưu một chính sách “hút sạch máu
Hà Nội”, qua việc đẩy Việt Nam vướng vào một cuộc chiến tranh du kích tại
Cambodia. Hiện nay, những sự việc đang xảy ra như những xung đột tuyên bố chủ
quyền của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông, việc tàu chiến Trung Quốc xâm
phạm Vịnh Bắc Bộ, nỗi thèm khát của Trung Quốc đối với một bờ biển dài 1,900 dặm
của Việt Nam mở rộng ra các tuyến giao thương nối liền Ấn Độ Dương và Tây Thái
Bình Dương, tất cả những cái đó trở thành lịch sử đang vận hành; trong khi cuộc
chiến của Việt Nam với Mỹ thì đơn giản là không phải, ngoại trừ một điểm. Do Việt
Nam đã từng chiến thắng nước Mỹ trong chiến tranh cho nên họ xem mình là bên
chiếm ưu thế trong mối quan hệ song phương: họ không có gì phải khổ tâm, đề phòng hay mất mặt trong một
mối liên minh quân sụ trên thực tế trong tương lại với người Mỹ. Từ sâu thẳm,
ngưởi Việt ít nhạy cảm với cuộc chiến với nước Mỹ vì họ đã là người chiến thắng.
Cuộc Kháng chiến chống Mỹ, như là cuộc xâm lược của Trung Quốc
tiếp sau đó, và cuộc tiến chiếm của chính Việt Nam đối với Cambodia đã đưa cuộc
xâm lược của Trung Quốc lên vị trí hàng đầu, tất cả là một phần của một quá
trình lịch sử từ rất lâu đã là tương tự như thế. Đó là lịch sử của những cuộc
chiến tranh trên bộ, phần nào dựa trên quá trình giải thực dân Phương Tây hóa.
Ngày nay khi vấn đề biên giới trên đất liền đã được giải quyết, cuộc tranh đấu
quốc gia chủ nghĩa tại nhiều nước Châu Á đã mở rộng ra biển; đặc biệt là tại Biển
Đông. Thực tế là, Việt Nam có một truyền thuyết lập quốc qua đó đất nước được
thành lập từ sự hợp nhất của Chúa Rồng Lạc Long Quân và nàng tiên Âu Cơ. Cùng
nhau họ sinh ra 100 người con trai, năm mươi theo mẹ lên núi và năm mươi còn lại
theo cha xuống biển. Di sản của người cha ngày nay dường như gắn chặt với số phận
của Việt Nam, sau hàng mấy mươi năm bị chi phối bởi phần từ người mẹ.
“Biên giới trên bộ giờ đây không còn quan trọng đối với
chúng tôi so với vấn đề Biển Đông,” Nguyễn Duy Chiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban biên
giới Chính phủ, phát biểu. Chiến thể hiện trước tôi một phong cách làm nhớ lại ấn
tượng của Lý Quang Diệu về các nhà lãnh đạo Việt Nam những năm 1970 quá sức
nghiêm trọng và đặc sệt Nho phong. Chúng tôi gặp nhau trong một văn phòng đơn
sơ và giản dị. Chiến vận một bộ đồ đơn giản. Cuộc gặp gỡ bắt đầu và kết thúc
đúng thời gian hạn định và ông ta đã dùng suốt thời gian để trình bày một bản
PowerPoint thật chi tiết, liên tục phản bác mọi luận điểm của Trung Quốc trên mọi khía cạnh có thể.
Chiến bắt đầu với một giới thiệu tổng quát về tình hình biên
giới: hai trăm điểm tranh chấp với Trung Quốc đã được giải quyết qua tám năm
thương lượng vào những năm 1990, với công tác phân chia hoàn tất vào năm 2008.
“So với 314 cột mốc biên giới có với Nhà Thanh Trung Hoa [khi bước vào thế kỷ
XX], thì nay đã có tới 1,971 cột. Vấn đề không phải ở trên đất liền, mà là ở
ngoài khơi.” Một phần ba dân số Việt Nam sống dọc theo bờ biển, ông ta nói với
tôi, và lĩnh vực liên quan đến biển chiếm 50% GDP của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu
chủ quyền đối với một thềm lục địa hai trăm dặm tại Biển “Nam Trung Hoa” [ngoặc
kép của người dịch] mà họ gọi là Biển Đông và bác bỏ chữ “Trung Hoa” trong tên gọi đó. Điều dó
cũng phù hợp với vùng đặc quyền kinh tế
theo định nghĩa của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển. Nhưng Chiến
cũng nhấn mạnh, thềm lục địa này có “phần chồng lấn” với vùng biển tuyên bố của
Trung Quốc và của Malaysia, cũng như với phần của Cambodia và Thái Lan kế bên Vịnh
Thái Lan. Địa hình của Vịnh Bắc Bộ đã tạo ra một vấn đề nan giải, với bờ biển
phía bắc Việt Nam bị án ngữ bởi đảo Hải Nam của Trung Quốc, Chiến giải thích rằng
Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết vấn đề bằng việc phân chia vùng vịnh giàu
tiềm năng này làm đôi, trong khi vấn đề phần cửa vịnh vẫn còn để ngỏ cần phân
chia tiếp.
“Nhưng chúng tôi không thể chấp nhận đường lưỡi bò – đường vẽ
thô bạo của Trung Quốc tại Biển Đông. Trung Quốc nói rằng vùng biển này đang
tranh chấp. Chúng tôi nói không. Đường lưỡi bò xâm phạm chủ quyền của năm quốc
gia.”
Chiến giới thiệu với tôi hàng loạt bản đồ trên máy tính của
ông, và nhắc lại một quá trình lịch sử dài. “Khi các vua Nhà Minh chiếm đóng Việt
Nam trong một khoảng thời gian vào thế kỷ XV, họ đâu có cai quản Hoàng Sa và
Trường Sa. Nếu các quần đảo này thuộc về họ, sao các vua Nhà Minh không vẽ vào
bản đồ của họ?” ông dẫn tiếp “ vào đầu thế kỷ XX tại sao bản đồ của các hoàng đế
Nhà Thanh sao chẳng hề xuất hiện Hoàng Sa và Trưởng Sa nếu chúng thuộc về Trung
Hoa?” Vào năm 1933, Pháp gửi quân đến Hoàng Sa và Trường Sa, ông ta nói với
tôi, bởi vì đó là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, ngày nay thuộc về Việt
Nam. Ông ta thêm rằng vào năm 1956 và sau đó năm 1988, Trung Quốc đã dùng “sức
mạnh quân sự” để chiếm lấy các bãi đá ở Hoàng Sa. Cuối cùng, ông ta giới thiệu
một trang về nhà thờ Santa Maria del Monte tại Italy, nơi lưu trữ một tài liệu
địa lý viết tay từ 1850, với một trang rưỡi trình bày rõ rằng Trường Sa thuộc về
Việt Nam như thế nào. Sự quả đoán của ông với những chi tiết trình bày đó có một
mục đích, như tại những bản đồ được trình bày tiếp theo trong bản PowerPoint,
thể hiện phần lớn của Biển Đông, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, được chia
thành những ô vuông tí hon thể hiện những khu mà Việt Nam có thể nhượng quyền
khai thác dầu mỏ cho các tập đoàn quốc tế trong tương lai.
Một viên chức ngoại giao nói: “ Khi đến với Biển Đông, thái
độ ban đầu của Trung QUốc là rất lúng túng, người của chúng tôi còn nhớ rõ về
điều đó.” Phó Đô đốc hải quân Nguyễn Viết Nhiên, Phó tư lệnh Hải quân Nhân dân
Việt Nam, gọi đường lưỡi bò là “vô căn cứ.” Gặp gỡ tại Bộ tư lệnh Hải quân tại
Hải Phòng – nơi từng bị Hoa Kỳ ném bom dữ đội từ 1965 đến 1972 – Phó Đô đốc
Nhiên cho tôi thấy một sự khẳng định cương quyết nữa của Việt Nam. Phía sau ông
là một bức tượng bán thân to của Hồ Chí Minh và một tấm bản đồ lớn thể hiện mọi
vùng tuyên bố cạnh tranh tại “Biển Đông” như ông thường xuyên nhắc đến. Với bốn
mươi lăm phút trình bày, ông chỉ rõ từng hành vi quân sự của Trung Quốc tại
Hoàng Sa và Trường Sa: đặc biệt là việc xâm chiếm phần phía tây của quần đảo
Hoàng Sa vào năm 1974 từ tay của chính thể Sài Gòn đang suy yếu. Đường lưỡi bò,
ông cho rằng, là một “giấc mơ lịch sử” của Bắc Kinh hơn là một yêu cầu chủ quyền
mang tính pháp lý, mà, cái việc đưa vào để tranh luận giữa các nhà lãnh đạo Bắc
Kinh với nhau về điều đó, cuối cùng có thể sẽ khép lại toàn bộ hay một phần đề
tài này trong các cuộc thương lượng trong tương lai. Thêm vào đó, việc Trung Quốc
xây dựng một hạm đội mạnh và dẫn dắt kinh tế Đông Á theo cái cách mà họ đang
làm, có thể dẫn tới việc Trung Quốc thống trị Biển Đông như Hoa Kỳ đã từng thống
trị vùng biển Caribe vào thế kỷ XIX. Thiếu tướng Lê Kim Dũng giải thích rằng sự
bành trướng của nền kinh tế Trung Quốc – dù chậm – sẽ dẫn đến sự hiện diện rõ rệt
của hạm đội của họ tại Biển Đông, đi đôi với niềm khao khát khai thác nguồn
năng lượng tại đây. Bày tỏ quan điểm đối mặt với sự bành trướng đó, Việt Nam dựa
vào một tinh thần dân tộc đang dâng cao - với cường độ mãnh liệt – đã từng thể
hiện trong các cuộc chiến tranh trên đất liền các thập kỷ trước đây.
Người Việt Nam rất thường nói với tôi rằng Biển Đông không
đơn thuần là một sự tranh chấp lãnh thổ: đó là ngã tư đường của thương mại hàng
hải, là yếu tố sống còn về nhu cầu năng lượng của Hàn Quốc và Nhật Bản, và
chính là nơi mà một ngày nào đó Trung Quốc có thể nắn gân sức mạnh của Hoa Kỳ tại
Châu Á. Việt Nam tán thành ý nghĩa lịch sử và văn hóa của cái cách mà các nhà
làm chính sách quản lý của Obama đã đặt tên cho thuật ngữ “Indo-Pacific”: Ấn Độ
cộng với Đông Á.
Không gì minh họa rõ nét hơn cho mong muốn của Việt Nam trở
thành vai chính trong khu vực bằng hành động qua đó họ đã mua sáu tàu ngầm hiện
đại lớp Kilo từ Nga. Một chuyên gia quốc phòng Phương Tây nói với tôi rằng việc
mua chúng chưa mang ý nghĩa gì cả. “Người Việt Nam sẽ thực sự sốc khi họ biết
được rằng việc bảo dưỡng những chiếc tàu đó sẽ tốn kém thế nào.” Quan trọng
hơn, Việt Nam sẽ phải đào tạo đội ngũ thủy thủ biết sử dụng chúng, một việc sẽ
mất cả một thế hệ để làm được. “Thay vì ngồi đếm số tàu ngầm của Trung Quốc, họ
nên tập trung vào các khí tài chống tàu ngầm và phòng vệ bờ biển là tốt hơn.”
Rõ ràng, việc Việt Nam mua tàu ngầm là để nâng cao thanh thế, để chỉ rõ rằng chúng tôi nghiêm túc. Theo chuyên gia quốc phòng này, người
Việt Nam “ đề cao cảnh giác” từ việc Trung Quốc tiến hành xây dựng căn cứ tàu
ngầm nguyên tử dưới đất tại đảo Hải Nam trong Vịnh Bắc Bộ.
Giao dịch nhiều tỷ đô là mua tàu ngầm của Nga bao gồm cà 200
triệu đô la cho việc cải tạo Vịnh Cam Ranh, một trong những nơi bỏ neo sâu nhất
Đông Nam Á, trấn tọa những con đường hàng hải tại Biển Đông, và là căn cứ quan
yếu của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Người Việt Nam nói rằng họ
có ý định sử dụng Vịnh Cam Ranh cho các tàu nước ngoài. Ian Storey, Nghiên cứu
sinh Học viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore, nói rằng một người Việt Nam
không nêu tên đã phát biểu rằng việc đại tu Vịnh Cam Ranh sẽ “đẩy mạnh quan hệ
quốc phòng với Hoa Kỳ và tạo thuận lợi cho sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại
Đông Nam Á như là một đối trọng cho sức mạnh đang lên của Trung Quốc.” Vịnh Cam
Ranh là một địa điểm hoàn hảo cho chiến lược “vị trí không đóng căn cứ” của Lầu
Năm Góc, là căn cứ quân sự của nước ngoài mà tàu chiến và máy bay Mỹ có thể viếng
thăm để sửa chữa và tiếp nhiên liệu mà không cần phải có những thỏa ước khung
nhạy cảm về chính trị và nghi thức. Các tàu chiến Hoa Kỳ - hàng không mẫu hạm, khu
trục hạm, tàu tiếp liệu, tàu cứu thương đã thường xuyên định kỳ ghé thăm các cảng
của Việt Nam. Ngô Quang Xuân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, bồi thêm: “Sự hiện diện
của Hoa Kỳ là cần thiết cho một bối cảnh hàng hải tự do tại Biển Đông.”
Một mối quan hệ chiến lược trên thực tế giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ đã được thể hiện ít nhất là từ
tháng bảy 2010 tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Hillary Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ có một mối “lợi ích quốc gia” tại Biển Đông,
rằng Hoa Kỳ sẵn sàng tham gia vào nỗ lực đa phương để giải quyết tranh chấp
lãnh thổ tại Biển Đông, và rằng tuyên bố lãnh hải phải trên cơ sở yếu tố đất liền:
nghĩa là, trên cơ sở trải rộng của thềm lục địa, một nguyên tắc đã bị vi phạm bởi
đường kẻ vạch hay còn gọi là đường
lưỡi bò của Trung Quốc. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi gọi ý kiến
của Clinton là “một sự chống đối lại
Trung Quốc thật sự.” Các viên chức Hoa Kỳ cơ bản là coi thường phát biểu của
Yang. Có lẽ không điều gì có thể minh chứng rõ việc Washington xích lại gần Việt
Nam hơn là việc hai bên ký kết thỏa thuận năng lượng hạt nhân phục vụ dân sinh
ba tháng trước mà theo đó về mặt lý thuyết Hoa Kỳ đồng ý hỗ trợ Việt Nam xây dựng
một cơ sở năng lượng hạt nhân.
Thực tế là, không có quốc gia nào bị đe dọa bởi sự lớn mạnh
của Trung Quốc bằng Việt Nam. Hãy nhìn việc Việt Nam tiếp cận ASEAN. Dĩ nhiên
là Việt Nam muốn ASEAN mạnh hơn, để làm đố trọng với Trung Quốc, họ đã thực tế,
họ nói với tôi như vậy. Họ biết rằng sự trỗi dậy mạnh mẽ của tinh thần quốc gia
chủ nghĩa ở Châu Á – đối lập với tư tưởng hậu quốc gia chủ nghĩa nhiều thập kỷ
tại Châu Âu – đã ngăn cản sự hội nhập giữa các nước thành viên ASEAN. “ASEAN thậm
chí không phải là một thể thống nhất thuế quan – điều đã làm cho nó trở thành một
khối trao đổi thương mại ở mức thấp,” một viên chức nói. Giữa những tấm màn
nhung đỏ của bộ ngoại giao, bên bộ ấm trà tráng lệ và trong khung cảnh kiến
trúc kiểu Pháp –Á, tôi đã được nghe tham vấn về những chiến lược cơ bản của
Trung Quốc, mà theo người Việt Nam, là nhằm trì hoãn mọi cuộc đối thoại đa
phương với các nước Đông Nam Á liên quan đến các tranh chấp về Biển Đông trong
khi mà Bắc Kinh khẩn trương lớn mạnh hóa quân đội của họ, và, một cách cố tình,
lôi kéo sự nhượng bộ của từng quốc gia Đông Nam Á riêng biệt khỏi cuộc bàn luận
đa phương - chia cắt để chế ngự,
nói một cách khác. Hạm đội củaTrung
Quốc, các viên chức quốc phòng Việt Nam nói với tôi, đã thực sự to lớn hơn của tất
cả các nước ASEAN gộp lại.
Nhưng Việt Nam không có lý do gì để xa lánh Trung Quốc hay nằm
vào vòng tay của Hoa Kỳ. Việt Nam đã quá phụ thuộc vào (và quan hệ mật thiết với)
Trung Quốc. Như chuyên gia người Australia Carlyle Thayer phân tích, mối quan hệ
quân sự Việt Nam – Trung Quốc đã phát triển song song với mối quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, Việt
Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn từ bất cứ quốc gia nào khác – vải
vóc, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, hàng điện tử, da giày, một loạt sản phẩm
tiêu thụ, ta có thể liệt kê. Nền kinh tế nơi đây đơn giản là không thể vận hành
mà thiếu đi Trung Quốc, ngay cả khi Trung Quốc qua việc tràn ngập thị trường Việt
Nam với hàng hóa giá rẻ, đã hạn chế sự phát triển của khu vực sản xuất nội địa.
Hơn thế, các viên chức Việt Nam bị ấn tượng bởi hoàn cảnh bất cân xứng về địa
lý của họ, như họ nói, nước xa không cứu
được lửa gần. Trung Quốc thì ngay kế cận còn Hoa Kỳ thì cách nửa vòng trái
đất, điều đó có ý nghĩa như là việc người Việt Nam phải nhẫn nhục chấp nhận việc
tàn phá môi trường do Trung Quốc khai thác quặng bauxit tại vùng Tây Nguyên màu
mỡ, một dự án như nhiều dự án khác khắp đất nước sử dụng lao động người Trung
Quốc hơn là sử dụng lao động người Việt Nam. “Chúng tôi không thể chuyển [đất
nước mình-người dịch] đi nơi khác, về mặt thống kê chúng tôi chỉ to bằng một tỉnh
của họ.” Nguyễn Tâm Chiến, một cựu Thứ trưởng Ngoại giao nói với tôi.
Với việc Liên bang Xô viết đã không ra tay hỗ trợ Việt Nam
năm 1979, người Việt Nam sẽ không bao giờ lại đặt niềm tin vào một thế lực xa
xôi. Do địa lý, người Việt Nam ở một mức độ nền tảng cơ sở nào đó không thể tin
vào Hoa Kỳ. Một quan chức nói với tôi rằng đơn giản là Hoa Kỳ đã yếu đi, và
hoàn cảnh còn tệ hơn, ông ta biện luận, khi Hoa Kỳ đặt mối quan tâm vào vấn đề
Trung Đông nhiều hơn là việc trỗi dậy của Trung Quốc tại Đông Á. Đó là một phân
tích chủ quan, tuy nhiên cũng có thể đúng, hoặc đúng một phần. Và vẫn còn đó nỗi
lo sợ Hoa Kỳ sẽ bán đứng Việt Nam để đổi lại mối quan hệ nồng ấm với Trung Quốc:
Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, nhắc lại rõ sự kiện Nixon mở cửa quan hệ
với Trung Quốc như là hành động trao cho Trung Quốc một bối cảnh chiến lược thuận
tiện cho việc xâm lược Việt Nam. “Điều đó có thể lặp lại.” Ông ta gật gù thất vọng.
Ngược lại, Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ đóng một vai diễn lạnh lùng, thực tế trong
nên ngoại giao toàn cầu, như là họ [Việt Nam] vậy. “Trở lực lớn nhất trong quá
trình đối thoại với người Mỹ là vấn đề dân chủ và nhân quyền,” một viên chức cộng
sản chính phủ nói với tôi. Người Việt Nam lo sợ điều đó bởi vì do tác động từ Quốc
hội, truyền thông, hay từ nhiều nhóm áp lực khác ở Washington, người Mỹ có thể
một ngày nào đó bán họ ra đưởng như là thời gian qua tại các nước độc tài hay bị
giới quân sự chi phối khác: Thái Lan, Uzbekistan, và Nepal, thí dụ như thế. Người
Việt Nam nhìn nhận sự miễn cưỡng trước đây của Hoa Kỳ kéo dài hàng mấy chục năm
trong việc cân bằng cán cân với Trung Quốc tại Myanmar là xuất phát từ vấn đề
nhân quyền và sự bướng bỉnh của Rangoon. “ Giá trị to lớn nhất phải là sự vững
mạnh của đất nước và nền độc lập. Chính là một quốc gia, chứ không phải là từng
cá nhân, có thể đem lại tự do.” Lê Chí Dũng, một Phó vụ trưởng của Bộ Ngoại
giao, nói với tôi, cố gắng giải thích về triết lý chính trị của đất nước mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét